Nguyên đơn
đã không có đủ chứng cứ chứng minh cho lập luận rằng việc Bị đơn từ chối hàng ở
Hồng Kông là không có căn cứ và rằng đây là một vi phạm hợp đồng. Nguyên đơn
không chứng minh được rằng Bị đơn đã chấp nhận việc gửi lô hàng thứ tám với
1.000.000 găng cao su bốc lên tàu ngày 4 tháng 11 năm 1988. Uỷ ban trọng tài
lưu ý rằng các bên đã chấp thuận hoãn việc gửi lô hàng đầu tiên.
Do đó, thời
gian giao hàng tiếp theo cũng được sửa đổi và Bị đơn đã không phản đối những lần
giao hàng muộn ngoại trừ đối với lô hàng thứ tám mặc dù việc Nguyên đơn giao
hàng sau khi thư tín dụng đã hết hạn là vi phạm thoả thuận của các bên về thời
gian giao hàng. Vì vậy, Uỷ ban trọng tài quyết định bác yêu cầu của Nguyên đơn
đòi bồi thường thiệt hại liên quan đến lô hàng thứ tám
NỘI
DUNG PHÁN QUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN TRANH CHẤP VỀ VIỆC GIAO HÀNG CHẬM
TRONG HỢP ĐỒNG GIA CÔNG GĂNG TAY
Các bên:
Nguyên đơn : Bên
gia công Trung Quốc
Bị
đơn : Bên
thuê gia công Hồng Kông
Các vấn đề được đề cập:
- Giao hàng theo lô và giao hàng chậm
- Từ chối thực hiện nghĩa vụ cung cấp nguyên liệu gia công do bên
kia vi phạm hợp đồng.
Tóm tắt vụ việc:
Ngày 26 tháng 2 năm 1988,
Nguyên đơn và Bị đơn ký một hợp đồng gia công găng tay cao su y tế ở Shenzhen bằng
cao su nhập khẩu.
Điều 1 của hợp đồng qui định Bị
đơn phải cung cấp 500 tấn cao su 60% ly tâm tự nhiên loại một (first class 60%
natural centrifugal latex) không tính phí trong khoảng thời gian từ tháng 3 năm
1988 đến tháng 1 năm 1989.
Điều 2 Hợp đồng qui định Nguyên
đơn phải chuyển cho Bị đơn 30.000.000 găng tay cao su y tế đóng trong các thùng
hàng vào khoảng giữa tháng 5 năm 1988 và tháng 3 năm 1989. Phí gia công là 29
USD cho một tấn găng tay, tổng số là 870.000 USD, bốc hàng ở Shanghai.
- Phí vận chuyển do Bị đơn chịu,
kể cả phí vận chuyển từ nhà máy đến cảng Shanghai.
- Thanh toán bằng thư tín dụng
giáp lưng (back-to-back L/C). Mỗi lần giao hàng Nguyên đơn phát hành một thư
tín dụng và thư tín dụng này chỉ có hiệu lực khi Bị đơn phát hành trở lại một
thư tín dụng trả tiền ngay (time letter of credit).
Điều 11 Hợp đồng qui định bên
vi phạm hợp đồng phải bồi thường 20% tổng trị giá các sản phẩm đã gia công hoặc
20% trị giá các sản phẩm chưa được gia công cộng với các thiệt hại về nguyên vật
liệu hoặc thiệt hại về nhân công cho bên kia. Khoản bồi thường sẽ phải trả một
lần.
Sau khi hợp đồng được ký kết, Bị
đơn đã cung cấp 175,89 tấn cao su thành bốn lần trong khoảng thời gian từ tháng
2 đến tháng 5 năm 1988. Sau khi nhận được nguyên vật liệu, Nguyên đơn đã tiến
hành sản xuất.
Do Bị đơn muốn thay đổi phương
thức đóng gói và vì các lý do khác, Nguyên đơn đã hoãn thời gian giao hàng trước
khi có sự chấp thuận của Bị đơn. Trong thời gian từ tháng 7 đến ngày 4 tháng 11
năm 1988 Nguyên đơn đã chuyển cho Bị đơn tổng cộng là 8.000.000 găng cao su,
tính cả 1.000.000 găng chuyển ngày 4 tháng 11 năm 1988 mà Bị đơn đã từ chối khi
số hàng này đến Hồng Kông và bị trả lại cho Nguyên đơn ngày 5 tháng 5 năm 1989.
Từ tháng 5 năm 1988, Bị đơn
đã ngừng cung cấp cao su cho Nguyên đơn và từ chối phát hành thư tín dụng cho số
găng đã gia công đó.
Sau một thời gian dài đàm phán
không thành công, ngày 23 tháng 8 năm 1989 Nguyên đơn đã khởi kiện Bị đơn ra trọng
tài với những lập luận như sau:
- Lô găng cao su thứ tám do Nguyên đơn xếp lên tàu đã được chuyển đến
Hồng Kông sau khi đã được đại diện của Bị đơn ở Shanghai chấp nhận qua điện thoại.
Do đó việc Bị đơn từ chối không nhận hàng ở Hồng Kông vì lý do hàng bị giao chậm
hơn so với ngày giao hàng ghi trong thư tín dụng là không hợp lý. Trên thực tế,
Bị đơn đã từ chối nhận số hàng này để tránh tổn thất vì mặt hàng này trên thị
trường đang bị mất giá. Bị đơn phải chịu trách nhiệm do vi phạm hợp đồng và phải
bồi thường thiệt hại cho Nguyên đơn.
- Nguyên đơn phải chịu các tổn thất về kinh tế vì phải lưu kho số
găng này do Bị đơn không nhận hàng và không phát hành thư tín dụng.
- Sau tháng 5 năm 1988 Bị đơn đơn phương ngừng cung cấp cao su theo
hợp đồng. Do đó nhà máy của Nguyên đơn phải ngừng sản xuất, gây thiệt hại nặng
nề cho Nguyên đơn.
- Ngày 29 tháng 7 năm 1988 Nguyên đơn đã phát hành thư tín dụng chấp
thuận (time
letter of credit) với trị giá 191.880 USD nhưng Bị đơn chỉ phát hành
thư tín dụng giáp lưng trả tiền ngay(back-to-back
sight letter of credit) theo từng lô hàng.
- Ngày 24 tháng 6 và ngày 25
tháng 7 năm 1988 Bị đơn chỉ phát hành hai thư tín dụng với tổng trị giá 243.920
USD trong đó có 116.000 USD phí gia công, các thư tín dụng này còn thiếu tổng cộng
là 121.960 USD trong đó có 58.000 USD phí gia công.
Sau đó Nguyên đơn liên tục nhắc
nhở Bị đơn mở thư tín dụng nhưng Bị đơn đã không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng
và Bị đơn còn sử dụng các phương thức không hợp thức khác để rút 95.940 USD còn
lại trong thư tín dụng chấp thuận của Nguyên đơn mà không thông báo gì cho
Nguyên đơn. Vì vậy Nguyên đơn còn phải chịu thêm nhiều thiệt hại kinh tế khác.
Vì những lý do nêu trên, Nguyên
đơn yêu cầu:
- Bị đơn bồi thường cho Nguyên đơn tiền thiệt hại 306.666 USD, tức
20% khoản tiền còn lại chưa trả, phù hợp với hợp đồng;
- Bị đơn phải trả 102.950 USD cho 3.550.000 găng đã gia công;
- Bị đơn phải trả lại 95.940 USD bị rút một cách bất hợp pháp từ thư
tín dụng chấp thuận của Nguyên đơn, cộng với 17.269,20 USD tiền lãi (tính theo
lãi suất 1,2%/tháng)
- Bị đơn phải
hoàn trả tiền cước vận chuyển nội địa mà Nguyên đơn đã trả nhân danh Bị đơn:
6.057,6 Rmb + 5.600 Rmb = 11.657 Rmb, tức là 3.142,21 USD (tỷ lệ qui đổi: 1USD
= 3,71 Rmb); và hoàn trả lại tiền phí vận chuyển đường biển và phí lưu hàng tại
cảng 40.780 HK$ (5.228USD);
- Bị đơn phải hoàn trả cho Nguyên đơn phí lưu kho, cộng với tiền lãi
là 1.325,03 Rmb (357,15USD);
- Phí luật
sư 18.800 Rmb (5.067,38 USD) do Bị đơn chịu;
- Phí trọng tài do bên thua kiện chịu.
Bị đơn giải trình như sau:
- Thư tín dụng chấp thuận do Nguyên đơn phát hành chỉ có hiệu lực
khi Bị đơn phát hành thư tín dụng giáp lưng trả tiền ngay, vì vậy Bị đơn có quyền
quyết định có nên tiếp tục cung cấp cao su và phát hành tín dụng giáp lưng cho
găng cao su đã gia công phù hợp với việc thực hiện hợp đồng hàng tháng của
Nguyên đơn. Nếu Bị đơn không cung cấp cao su và phát hành tín dụng giáp lưng
thì Nguyên đơn có quyền quyết định có tiếp tục gia công găng cao su, giao hàng
và phát hành thư tín dụng giáp lưng hay không. Bị đơn đã cung cấp 175,89 tấn
cao su phù hợp với hợp đồng, nhưng Nguyên đơn lại không giao hàng đúng thời hạn
giao hàng qui định trong hợp đồng. Nguyên đơn đã giao chậm tất cả là 8.000.000
găng cao su, kể cả 1.000.000 đôi trong lần giao hàng cuối cùng, số hàng được xếp
lên tàu ngày 4 tháng 11 năm 1988 mà không được phép của đại diện của Bị đơn ở
Shanghai, và đã vượt quá thời gian xếp hàng trong thư tín dụng. Nguyên đơn phải
tự chịu trách nhiệm cho việc Bị đơn từ chối số hàng giao chậm. Để tránh những
thiệt hại tiếp theo căn cứ vào quá trình thực hiện hợp đồng trước đó của Nguyên
đơn, Bị đơn tạm ngừng cung cấp cao su và phát hành các thư tín dụng giáp lưng để
chấp nhận số găng đã gia công đó.
- Do Nguyên đơn đã vi phạm hợp đồng, ba container cao su mà Bị đơn
đã chuyển cho Nguyên đơn đã không được thu hồi. Sau khi đàm phán với ngân hàng,
Bị đơn rút lại 95.940 USD coi như tiền thanh toán cho số cao su nói trên. Vì
Nguyên đơn đã nhận số cao su trong ba container hàng này nên Bị đơn được quyền
đòi tiền cao su.
Phán quyết của trọng tài:
1. Nguyên
đơn đã không có đủ chứng cứ chứng minh cho lập luận rằng việc Bị đơn từ chối
hàng ở Hồng Kông là không có căn cứ và rằng đây là một vi phạm hợp đồng. Nguyên
đơn không chứng minh được rằng Bị đơn đã chấp nhận việc gửi lô hàng thứ tám với
1.000.000 găng cao su bốc lên tàu ngày 4 tháng 11 năm 1988. Uỷ ban trọng tài
lưu ý rằng các bên đã chấp thuận hoãn việc gửi lô hàng đầu tiên. Do đó, thời
gian giao hàng tiếp theo cũng được sửa đổi và Bị đơn đã không phản đối những lần
giao hàng muộn ngoại trừ đối với lô hàng thứ tám mặc dù việc Nguyên đơn giao
hàng sau khi thư tín dụng đã hết hạn là vi phạm thoả thuận của các bên về thời
gian giao hàng. Vì vậy, Uỷ ban trọng tài quyết định bác yêu cầu của Nguyên đơn
đòi bồi thường thiệt hại liên quan đến lô hàng thứ tám.
2. Bị đơn lập luận rằng lý do khiến Bị đơn
ngừng cung cấp cao su và phát hành thư tín dụng đối ứng trả tiền ngay (opposite
sight letter of credit) là để tránh những tổn thất khác do việc giao muộn lô
hàng thứ tám gây ra. Lập luận này của Bị đơn là không thể chấp nhận được.
Uỷ ban trọng tài cho rằng
Việc Nguyên
đơn giao muộn lô hàng thứ tám không phải là một vi phạm nghiêm trọng đối với hợp
đồng và do đó không giải phóng các bên khỏi các quyền và nghĩa vụ trong hợp
đồng.
Nếu số lượng hàng gửi được tính theo ngày gửi hàng trước khi sửa đổi, như Bị
đơn đề nghị, thì Bị đơn phải giao lô cao su mới muộn nhất là vào cuối tháng 8
năm 1988. Bị đơn không thể coi việc giao hàng hồi tháng 11 là sự hoàn thành
nghĩa vụ mà lẽ ra phải được hoàn thành từ tháng 8. Do đó, Uỷ ban trọng tài quyết
định Bị đơn phải trả tiền bồi thường thiệt hại là 112.810 USD (tức 29USD/1 tấn
hàng x (30.000.000 - 7.000.000 - 1.000.000 - 2.550.000) x 20%) và bồi thường
cho 2.550.000 găng cao su đã gia công.
Hợp đồng qui định thư tín dụng chấp thuận do Nguyên đơn phát hành chỉ có hiệu lực
khi Bị đơn phát hành thư tín dụng giáp lưng trả tiền ngay. Việc Bị đơn đơn
phương rút 95.940 USD còn lại, trong đó có 31.980 USD tiền phải trả cho lô hàng
thứ tám trong thời gian thư tín dụng do Nguyên đơn mở đang có hiệu lực trong
khi Bị đơn không phát hành thư tín dụng giáp lưng trả tiền ngay trị giá 121.960
USD là không đúng. Từ thực tế là Nguyên đơn đã gia công 3.550.000 găng cao su,
trong đó có 1.000.000 găng giao chậm nên Nguyên đơn phải tự mình chịu trách nhiệm
về lô hàng giao chậm này, Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn 73.950 USD cho
2.550.000 găng còn lại do Bị đơn đã không phát hành thư tín dụng giáp lưng
thanh toán ngay. Vì số găng này không chuyển cho Bị đơn nữa nên yêu cầu đòi
95.940 USD của Nguyên đơn không được chấp thuận.
Phù hợp với điều khoản về vận chuyển của hợp đồng, Uỷ ban trọng tài chấp nhận
yêu cầu của Nguyên đơn về 8.142,21 USD phí vận chuyển nội địa mà Nguyên đơn đã
trả cho Bị đơn.
Tuy nhiên,
khoản tiền 1.884, 09 USD của lô hàng thứ tám gồm 1.000.000 găng phải được khấu
trừ và phần thanh toán thực tế phải trả là 1.258,12 USD. Uỷ ban trọng tài bác
yêu cầu của Nguyên đơn về 5.228 USD tiền cước vận chuyển đi và về và tiền phí
lưu kho hàng hoá ở cảng cho lô hàng thứ tám này.
Uỷ ban trọng
tài chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn đòi bồi thường 357,15 USD tiền lưu kho và
tiền lãi phát sinh mà Nguyên đơn đã phải trả nhân danh Bị đơn.
1. Phí luật
sư của Nguyên đơn là 18.800 Rmb phải do Nguyên đơn chịu.
2. Phí trọng
tài sẽ do cả hai bên chịu: Nguyên đơn chịu 30%, phần 70% còn lại do Bị đơn chịu.
Phán quyết:
1. Bác yêu
cầu của Nguyên đơn đòi bồi thường thiệt hại cho lô găng cao su thứ tám do thiếu
chứng cứ thực tế và chứng cứ về pháp luật;
2. Bị đơn
phải bồi thường cho Nguyên đơn tiền thiệt hại 112.810 USD vì đã không tiếp tục
thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng của mình, và 73.950 USD tiền phí gia công
2.550.000 găng;
3. Bác yêu
cầu của Nguyên đơn đòi trả 95.940 USD mà Bị đơn đã rút lại, cộng với tiền lãi
11.512, 8%;
4. Bị đơn
phải hoàn trả 1.258, 12 USD phí vận chuyển nội địa cho Nguyên đơn;
5. Bị đơn
phải bồi thường cho Nguyên đơn tiền lưu kho 357,15 USD mà Nguyên đơn đã trả
thay cho Bị đơn cộng với tiền lãi;
6. Phí trọng
tài sẽ do cả hai bên chịu: Nguyên đơn chịu 30%, phần 70% còn lại do Bị đơn chịu.
Copyright © 2019 OPIC LAW All Right Reserved
Những điểm mới trong luật tạm giữ, tạm giam
Tháng Ba 22, 2019