Án
lệ số 72/2024/AL về xác định di sản thừa kế là quyền sử dụng đất trong trường
hợp di chúc không thể hiện diện tích dất cụ thể
Án lệ số 72/2024/AL được Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao thông qua vào các ngày 20, 21, 23 tháng 02 năm 2024 và
được công bố theo Quyết định 119A/QĐ-CA ngày 15 tháng 5 năm 2024 của Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao.
Nguồn án lệ:
Quyết định giám đốc
thẩm số 60/2022/DS-GĐT ngày 19/12/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao về vụ án dân sự “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất" giữa nguyên
đơn là bà Nguyễn Thị G với bị đơn là ông Nguyễn Văn U; người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan gồm 19 người.
Vị trí nội dung án lệ:
Đoạn 4, 5 và 8 phần
“Nhận định của Toà án”.
Khái quát nội dung của
án lệ:
- Tình huống án lệ:
Di sản thừa kế là
quyền sử dụng đất được định đoạt theo di chúc hợp pháp, nội dung di chúc có xác
định tứ cận nhưng không thể hiện diện tích đất cụ thể và không có tranh chấp về
tử cận.
- Giải pháp pháp lý:
Trường hợp này, Tòa án
phải xác định di sản thừa kế là quyền sử dụng đất được xác định theo diện tích
đất đo đạc thực tế theo tứ cận thể hiện trong di chúc.
Quy định của pháp luật
có liên quan đến án lệ:
Các điều 624, 630 và
634 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Từ khoá của án lệ:
“Di sản thừa kế”; “Di
chúc hợp pháp”; “Thừa kế theo di chúc”; “Xác định theo tứ cận”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề
ngày 15/3/2017 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà
Nguyễn Thị G trình bày:
Cha, mẹ bà là cụ
Nguyễn Văn M (chết năm 1998) và cụ Nguyễn Thị B (chết năm 2010); cụ M và cụ B
có 08 người con gồm: Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị M1, Nguyễn Văn C (chết không nhớ
năm), Nguyễn Thị G, Nguyễn Văn K (chết năm 2016), Nguyễn Văn L, Nguyễn Thị P và
Nguyễn Văn U. Di sản thừa kế do cụ M, cụ B để lại là phần đất có diện tích
32.500m2 thuộc tờ bản đồ số 10D, thừa số 809 và 810 tại ấp N, xã T, huyện C
(nay là huyện P), tỉnh Cà Mau.
Nguồn gốc đất tranh
chấp là của cha, mẹ cụ B khai phá; sau đó cho vợ chồng cụ M, cụ B quản lý và sử
dụng. Năm 1993, cụ M kê khai vào sổ mục kê địa chính thuộc tờ bản đồ số 10D,
thửa số 809 và 810, được Ủy ban nhân dân huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất.
Năm 1994, 1995, ông Nguyễn
Văn U ra ở riêng trên phần đất tại ấp A, xã T, huyện P, còn bà chung sống với
cha mẹ từ nhỏ và quản lý, sử dụng phần đất 32.500m2 nêu trên từ đó cho đến nay.
Ngày 16/5/1998, cụ M
lập di chúc để lại cho bà phần đất 15 công tầm cấy, còn 10 công thì ai thờ cúng
ông bà sẽ được hưởng. Khi lập di chúc cụ M vẫn còn minh mẫn. Năm 2000, ông U
giả mạo chữ ký của cụ M để làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và được Ủy ban
nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông U mà bà
không biết.
Năm 2004, cụ B họp các
con trong gia đình và thống nhất cho bà toàn bộ 32.500m3 đất để bả quản lý và
thờ phụng ông bà, Biên bản họp gia đình có Ủy ban nhân dân xã T chứng thực.
Năm 2006, cụ B tiếp
tục lập di chúc cho bà toàn bộ phần đất nêu trên. Sau khi cụ B chết, bà vẫn
quản lý và sử dụng đất cho đến nay. Tuy nhiên, năm 2016, ông Ụ ngăn cản không
cho bà sử dụng đất và cho rằng đất này ông U đã được cha, mẹ cho.
Vì vậy, bả khởi kiện
yêu cầu Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện C
cấp cho ông U ngày 15/11/2000 và công nhận quyền sử dụng đất cho bà theo di
chúc đối với phần đất có diện tích 32.500m2 (đo đạc thực tế là 35.180,7m2). Căn
nhà có trên đất là của cụ M và cụ B, ông U chỉ là người đứng ra xây dựng khi
còn ở chung với cha mẹ, khi ông U đi nơi khác thì bả sử dụng và có sửa chữa
lại.
Bị đơn là ông Nguyễn
Văn U trình bày:
Ông thống nhất về quan
hệ huyết thống như lời trình bày của bà G.
Nguồn gốc đất tranh
chấp do cụ M, cụ B khai phá từ năm 1950. Năm 1983, bà G cất nhà tạm ở mặt tiền
phần đất tranh chấp để buôn bán, còn ông là con trai út tiếp tục chung sống,
chăm sóc cha mẹ và trực tiếp quản lý, sử dụng đất. Khoảng năm 1993, ông xây
dựng căn nhà từ nguồn tiền trong gia đình vì lúc này ông sống chung với gia
đình. Năm 1998, cha, mẹ tặng cho ông đất, có Biên bản họp gia đình và ông đã
nộp cho cơ quan có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Cùng năm 1998, ông đã kê khai, đăng ký theo quy định và được Ủy ban nhân dân
huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 15/11/2000.
Sau khi cụ M chết, do
cuộc sống khó khăn nên ông đi nơi khác làm ăn, còn vợ con ông vẫn sống tại nhà
đất nêu trên. Năm 2010, cụ B chết, nhằm tạo điều kiện cho bà G có thu nhập nên
ông đi nơi khác sinh sống, để lại căn nhà cho bà G mượn ở và canh tác trên đất.
Phần đất mà vợ chồng ông hiện đang sử dụng tại ấp I, xã T được mua bằng nguồn
tiền của vợ chồng ông.
Đối với việc cha mẹ
lập di chúc và họp gia đình cho bà G đất, ông không biết.
Tại đơn phản tố đề
ngày 16/3/2018, ông U yêu cầu Tòa án buộc bả G trả lại cho ông toàn bộ diện
tích phần đất tranh chấp và căn nhà cấp 4 trên đất.
Người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trình bày:
1. Bà Nguyễn Thị M1
trình bày: Bà G sống chung
với cha, mẹ từ nhỏ. Việc cha, mẹ lập di chúc cho bà G đất có sự chứng kiến của
bà; khi cụ B họp gia đình bà tham dự, không có mặt ông U. Căn nhà trên đất do
cha, mẹ xây cất vì lúc này các con còn ở chung với cha, mẹ. Phần đất hiện ông U
đang quản lý, sử dụng khoảng 06 ha ở ấp I, xã T là do người em thứ 7 bán cho cụ
B một phần, người em thứ 6 cho một phần đất để nuôi cha, mẹ nhưng ông U không
nuôi cha, mẹ. Đối với phần đất tranh chấp và tài sản trên đất bà không yêu cầu
chia thừa kế; yêu cầu giải quyết phần đất tranh chấp thuộc về bà G theo di chúc
cha, mẹ để lại.
2. Ông Nguyễn Văn L
trình bày: Việc xây nhà là
do cha, mẹ và anh em trong gia đình xây cất không phải do ông U xây. Khi cha,
mẹ còn sống có lập di chúc và họp gia đình cho bà G phần đất tranh chấp. Đối
với phần đất ông U đang quản lý, sử dụng có 1 phần do ông bán cho ông U và một
phần do anh thứ 6 cho để nuôi cha, mẹ. Ông yêu cầu Tòa án giải quyết phần đất
tranh chấp thuộc về bà G theo di chúc của cha, mẹ.
3. Bà Nguyễn Thị P
trình bày: Khi cha, mẹ còn
sống bà có nghe cha nói cho bà G 5 công đất. Bà không yêu cầu chia thừa kế mà
chỉ yêu cầu để lại 05 công đất nền mộ không ai được quyền chia.
4. Bà Nguyễn Thị H
trình bày: Trước đây khi
cha, mẹ còn sống có nói là làm di chúc để lại phần đất tranh chấp cho bà G còn
việc làm di chúc thời điểm nào thì bà không nhớ vì thời gian đã lâu. Bà G ở
phần đất tranh chấp từ lúc nhỏ đến nay và là người nuôi dưỡng cha, mẹ lúc còn
sống, sau khi cha, mẹ chết bà G là người thờ cúng cha, mẹ. Ông U không quản lý
phần đất tranh chấp vì ông U có đất riêng.
5. Anh Nguyễn Văn V
trình bày: Anh yêu cầu chia
thừa kế đối với phần di sản mà cha anh là ông C được hưởng.
6. Anh Nguyễn Văn T: Thống nhất với phần trình bày của anh V.
7. Chị Nguyễn Thúy H: Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định
của pháp luật.
Tại Bản án dân sự sơ
thẩm số 04/2019/DS-ST ngày 16/4/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau quyết định:
Chấp nhận yêu cầu khởi
kiện về việc chia thừa kế của bà Nguyễn Thị G đổi với ông Nguyễn Văn U.
Bà G được hưởng thừa
kế đối với phần di sản của cụ Nguyễn Văn M và cụ Nguyễn Thị B để lại gồm: Phần
đất theo đo đạc thực tế diện tích 35.180,7 m2 tọa lạc tại ấp N, xã T, huyện P,
tỉnh Cà Mau (có nêu tử cận) và tài sản gắn liền trên đất gồm: 01 nhà chính kích
thước ngang 6,7m, dài 8,7m, diện tích 58,29m, kết cấu khung cột gỗ địa phương,
vách ván, mái lợp tol, nền đất, xây cất năm 1993, bà G sửa chữa lại năm 2016;
01 nhà phụ kích thước ngang 11,4m, dài 21,3m, diện tích 242,82m, kết cấu xây bỏ
gạch thẻ, khung thép, cột bê tông cốt thép, vách thiếc, mái tol tráng kẽm, nền
đất, xây cất năm 2012; 01 cây nước khoan và cây trồng trên đất.
Hủy Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số R202211 cấp ngày 15/11/2000 của Ủy ban nhân dân huyện C,
tỉnh Cà Mau cho ông Nguyễn Văn Ụ đứng tên.
Không chấp nhận yêu
cầu phản tố của ông Nguyễn Văn U về việc buộc bà G, chị H, anh T1 trả lại cho
ông U toàn bộ diện tích đất tranh chấp nêu trên và căn nhà trên đất.
Ngoài ra, Tòa án cấp
sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo của các
đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 26/4/2019, bị đơn
là ông Nguyễn Văn U có đơn kháng cáo toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm nêu trên.
Tại Bản án dân sự phúc
thẩm số 646/2019/DS-PT ngày 13/12/2019, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố
Hồ Chí Minh quyết định:
Không chấp nhận kháng
cáo của bị đơn là ông Nguyễn Văn U; giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số
04/2019/DS-ST ngày 16/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau.
Tòa án cấp phúc thẩm
còn quyết định về án phí, chi phí định giá, giám định và nghĩa vụ thi hành án.
Tại Quyết định kháng
nghị giám đốc thẩm số 01/QĐ-VKS-DS ngày 04/3/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao kháng nghị đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 646/2019/DS-PT
ngày 13/12/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy
Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên, huỷ Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2019/DS-ST
ngày 16/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án
nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa giám đốc
thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao chấp nhận Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Phần đất tranh
chấp có diện tích đo đạc thực tế là 35.180,7m thuộc thửa đất số 809, 810 tờ bản
đồ số 10D (theo hồ sơ địa chính năm 1993) nay là thửa đất số 135, 136 tờ bản đồ
số 10 (theo hồ sơ địa chính năm 2006) tại ấp N, xã T, huyện P, tỉnh Cà Mau có
nguồn gốc là của cụ Nguyễn Văn M (chết năm 1998) và cụ Nguyễn Thị B (chết năm
2010). Hiện trạng trên đất có 01 nhà chính diện tích 58,29m2 (xây năm 1993),
cây nước khoan, cây trồng và khu mộ gồm 03 ngôi mộ.
[2] Cụ M, cụ B có 08
người con gồm: Bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị M1, ông Nguyễn Văn C (đã chết,
không rõ năm nào), bà Nguyễn Thị G, ông Nguyễn Văn K (chết năm 2016), ông
Nguyễn Văn L, bà Nguyễn Thị P, ông Nguyễn Văn U.
[3] Quá trình giải
quyết vụ án, bà Nguyễn Thị G cho rằng vợ chồng cụ M, cụ B đã cho bà phần đất
nêu trên từ năm 1998, sau khi được cho đất bà G đã liên tục quản lý, sử dụng và
có sửa chữa căn nhà trên đất. Trong khi đó, ông Nguyễn Văn U không thừa nhận
việc cha, mẹ lập di chúc cho bà G toàn bộ đất mà cho rằng năm 1998 cha, mẹ đã
cho ông U diện tích đất nêu trên và năm 2000 ông U được Ủy ban nhân dân huyện C
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
[4] Theo Tờ di chúc đề
ngày 16/5/1998, cụ M và cụ B cho bà G diện tích đất là 15 công tầm lớn. Mặc dù
di chúc không ghi diện tích đất cụ thể, chỉ ghi là 15 công tầm lớn nhưng có nêu
tử cận của khu đất: Mặt tiền giáp Kênh N, Đông (hậu) giáp Nguyễn Văn L1, Bắc
giáp Lý Tùng H1, Tây giáp Quách Văn M2. Nhữ vậy, phần đất bà G được cha, mẹ cho
là đất có khuôn viên, xung quanh tiếp giáp với kênh N và đất của các hộ dân
khác, hiện nay không có tranh chấp về tứ cận. Sau khi cụ M chết, tại Biên bản
họp gia đình ngày 15/6/2004 và Tờ di chúc ngày 09/9/2006 cụ B đã thể hiện ý chí
cho bà G toàn bộ diện tích 32.500m2 đất, điều này phù hợp với việc năm 1998 vợ
chồng cụ M, cụ B lập di chúc cho bà G đất theo khuôn viên.
[5] Tờ di chúc đề ngày
16/5/1998 do cụ M và cụ B lập có chữ ký của các con (trong đó có ông U) và xác
nhận của chính quyền địa phương; Biên bản họp gia đình ngày 15/6/2004, có chữ
ký của các con (không có chữ ký của ông U) và xác nhận của chính quyền địa
phương, Tờ di chúc để ngày 09/09/2006 có xác nhận của chính quyền địa phương
thể hiện tại thời điểm lập di chúc và họp gia đình các con của cụ M, cụ B không
ai có ý kiến phản đối việc hai cụ cho bà G toàn bộ phần đất tranh chấp, đều xác
nhận do bà G sống chung với cha mẹ từ nhỏ nên cha, mẹ và các anh chị em thống
nhất cho bà G quản lý đất để thờ phụng cha, mẹ. Riêng ông U cho rằng ông Ụ được
cụ M, cụ B tặng cho đất từ năm 1998 nên ngày 15/11/2000, ông U được Ủy ban nhân
dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng ông U không xuất trình
được chứng cứ chứng minh có việc cha mẹ tặng cho đất.
[6] Đối với việc kê
khai, đăng ký và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tranh chấp. Phiếu
cung cấp thông tin địa chính số 32/PCCTT ngày 29/12/2016 của Chi nhánh Văn
phòng đăng ký đất đai huyện P thể hiện cụ M đăng ký, kê khai năm 1993 và được
Ủy ban nhân dân huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; đến năm 2006, bà
G đăng ký, kê khai quyền sử dụng đất. Tại Công văn số 1922/UBND ngày
23/10/2018, Ủy ban nhân dân huyện P cho biết hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho ông U đã thất lạc. Mặt khác, tại Biên bản hòa giải ngày 23/02/2017
của Ủy ban nhân dân xã T, ông U trình bày cụ M ủy quyền cho ông làm Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất để thế chấp vay tiền tại Ngân hàng.
[7] Thời điểm năm 1998
ông U không sống chung với cha, mẹ mà sống tại ấp I, xã T; đồng thời quản lý,
sử dụng phần đất có diện tích khoảng 06 - 07ha. Bà G, bà M, ông L đều xác định
phần đất ông U sử dụng tại ấp I là của cụ M, cụ B cho ông U sử dụng (trong đó
có một phần của ông L sang nhượng cho cụ M, cụ B và một phần của người con thứ
6 cho để nuôi cha mẹ). Ông U cho rằng đất ông sử dụng tại ấp I có một phần do
tập đoàn cấp, một phần do nhận chuyển nhượng nhưng ông U không xuất trình được
chứng cứ chứng minh.
[8] Khi giải quyết vụ
án, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào nội dung của di chúc,
biên bản họp gia đình, lời khai của các con cụ M, cụ B và quá trình quản lý, sử
dụng đất liên tục từ năm 1998 của bà G cũng như việc kê khai, đăng ký đất từ đó
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà G, công nhận bà G được hưởng thừa kế đối với
phần đất là di sản của cụ M, cụ B là có căn cứ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm a khoản 2
Điều 337, khoản 1 Điều 343 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
1. Không chấp nhận
Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 01/QĐ-VKS- DS ngày 04/3/2022 của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
2. Giữ nguyên Bản án
dân sự phúc thẩm số 646/2019/DS-PT ngày 13/12/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao
tại Thành phố Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG ÁN LỆ
“[4] Theo Tờ di chúc
đề ngày 16/5/1998, cụ M và cụ B cho bà G diện tích đất là 15 công tầm lớn. Mặc
dù di chúc không ghi diện tích đất cụ thể, chỉ ghi là 15 công tầm lớn nhưng có
nếu tử cận của khu đất: Mặt tiền giáp Kênh N, Đông (hậu) giáp Nguyễn Văn L1,
Bắc giáp Lý Tùng H1, Tây giáp Quốc Văn M2. Như vậy, phần đất bà G được cha, mẹ
cho là đất có khuôn viên, xung quanh tiếp giáp với kênh N và đất của các hộ dân
khác, hiện nay không có tranh chấp về tứ cận Sau khi cụ M chết, tại Biên bản
họp gia đình ngày 15/6/2004 và Tờ di chúc ngày 09/9/2006 cụ B đã thể hiện ý chí
cho bà G toàn bộ diện tích 32.500m2 đất, diễu này phù hợp với việc năm 1998 vợ
chồng cụ M, cụ B lập di chúc cho bà G đất theo khuôn viên.
[5] Tờ di chúc đề ngày
16/5/1998 do cụ M và cụ B lập có chữ ký của các con (trong đó có ông U) và xác
nhận của chính quyền địa phương; Biên bản họp gia đình ngày 15/6/2004, có chữ
ký của các con (không có chữ ký của ông U) và xác nhận của chính quyền địa
phương, Tờ di chúc để ngày 09/09/2006 có xác nhận của chính quyền địa phương
thể hiện tại thời điểm lập di chúc và họp gia đình các con của cụ M, cụ B không
ai có ý kiến phản đối việc hai cụ cho bà G toàn bộ phần đất tranh chấp, đều xác
nhận do bà G sống chung với cha mẹ từ nhỏ nên cha, mẹ và các anh chị em thống
nhất cho bà G quản lý đất để thờ phụng cha, mẹ. Riêng ông U cho rằng ông Ụ được
cụ M, cụ B tặng cho đất từ năm 1998 nên ngày 15/11/2000, ông U được Ủy ban nhân
dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng ông U không xuất trình
được chứng cứ chứng minh có việc cha mẹ tặng cho đất.
[8] Khi giải quyết vụ
án, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào nội dung của di chúc,
biên bản họp gia đình, lời khai của các con cụ M, cụ B và quá trình quản lý, sử
dụng đất liên tục từ năm 1998 của bà G cũng như việc kê khai, đăng ký đất từ đó
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà G, công nhận bà G được hưởng thừa kế đối với
phần đất là di sản của cụ M, cụ B là có căn cứ.
 
  
 Copyright © 2019 OPIC LAW All Right Reserved
Những điểm mới trong luật tạm giữ, tạm giam
Tháng Ba 22, 2019