Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
  I. Khái quát chung
    Ngày 26/11/2014, Luật Đầu tư sửa
đổi đã được Quốc hội biểu quyết thông qua thay thế cho Luật Đầu tư năm 2005, có
hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2015. Với mục tiêu tạo bước chuyển biến mới về
cải cách thủ tục hành chính trong thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh góp
phần tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện để các nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu
tư với thủ tục đơn giản hơn và chi phí thấp hơn, Luật Đầu tư năm 2014 đã có
nhiều điểm mới về đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
- Các hình thức đầu tư vào Việt Nam
 Luật Đầu tư năm 2014 đã quy định rõ các hình
thức đầu tư tại Việt Nam. Theo đó, có 4 hình thức đầu tư như sau:
- Đầu tư thành lập tổ chức kinh
tế;
- Đầu tư theo hình thức góp vốn,
mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế;
- Đầu tư theo hình thức hợp đồng
PPP;
- Đầu tư theo hình thức hợp đồng
BCC;
- Đặc điểm
 Đầu tư trực tiếp nước ngoài có những đặc điểm chủ yếu sau:
- Thứ nhất,gắn liền với việc di
chuyển vốn đầu tư, tức là tiền và các loại tài sản khác giữa các quốc gia, hệ
quả là làm tăng lượng tiền và tài sản của nền kinh tế nước tiếp nhận đầu tư và
làm giảm lượng tiền và tài sản nước đi đầu tư.
- Thứ hai,được tiến hành thông
qua việc bỏ vốn thành lập các doanh nghiệp mới (liên doanh hoặc sở hữu 100%
vốn), hợp đồng hợp tác kinh doanh, mua lại các chi nhánh hoặc doanh nghiệp hiện
có, mua cổ phiếu ở mức khống chế hoặc tiến hành các hoạt động hợp nhất và
chuyển nhượng doanh nghiệp.
- Thứ ba,nhà đầu tư nước ngoài là
chủ sở hữu hoàn toàn vốn đầu tư hoặc cùng sở hữu vốn đầu tư với một tỷ lệ nhất
định đủ mức tham gia quản lý trực tiếp hoạt động của doanh nghiệp.
- Thứ tư,là hoạt động đầu tư của
tư nhân, chịu sự điều tiết của các quan hệ thị trường trên quy mô toàn cầu, ít
bị ảnh hưởng của các mối quan hệ chính trị giữa các nước, các chính phủ và mục
tiêu cơ bản luôn là đạt lợi nhuận cao.
- Thứ năm,nhà đầu tư trực
tiếp kiểm soát và điều hành quá trình vận động của dòng vốn đầu tư.
- Thứ sáu,FDI bao gồm hoạt
động đầu tư từ nước ngoài vào trong nước và đầu tư từ trong nước ra nước ngoài,
do vậy bao gồm cả vốn di chuyển vào một nước và dòng vốn di chuyển ra khỏi nền
kinh tế của nước đó.
- Thứ bảy, FDI chủ yếu là do các công ty xuyên quốc gia thực hiện.
    Các đặc điểm nêu trên mang
tính chất chung cho tất cả các hoạt động FDI trên toàn thế giới. Đối với Việt
Nam, quá trình tiếp nhận FDI diễn ra đã được 20 năm và những đặc điểm nêu trên
cũng đã thể hiện rõ nét. Chính những đặc điểm này đòi hỏi thể chế pháp lý, môi
trường và chính sách thu hút FDI phải chú ý để vừa thực hiện mục tiêu thu hút
đầu tư, vừa bảo đảm mối quan hệ cân đối giữa kênh đầu tư FDI với các kênh đầu
tư khác của nền kinh tế.
II. Các hình thức đầu tư vào Việt Nam
- Đầu tư thành lập tổ chức kinh tế
 Hình thức đầu tư thành lập
tổ chức kinh tế được quy định tại Điều 22 Luật Đầu tư 2014 và được hướng dẫn
chi tiết tại Điều 44 Nghị định số 118/2015/NĐ-CP ngày 12/11/2015 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư. Theo đó,
trước khi thành lập tổ chức kinh tế, nhà đầu tư nước ngoài phải có dự án đầu
tư, thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và phải đáp ứng các
điều kiện:
 
- Về tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ
 Nhà đầu tư nước ngoài được sở hữu vốn điều lệ không hạn chế
trong tổ chức kinh tế, trừ các trường hợp sau đây:
- Tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư
nước ngoài tại công ty niêm yết, công ty đại chúng, tổ chức kinh doanh chứng
khoán và các quỹ đầu tư chứng khoán theo quy định của pháp luật về chứng khoán;
- Tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư
nước ngoài trong các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa hoặc chuyển đổi sở hữu
theo hình thức khác thực hiện theo quy định của pháp luật về cổ phần hóa và
chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước;
- Tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư
nước ngoài không thuộc quy định tại nêu trên thực hiện theo quy định khác của
pháp luật có liên quan và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên.
- Hình thức đầu tư, phạm vi
hoạt động, đối tác Việt Nam tham gia thực hiện hoạt động đầu tư và điều kiện
khác theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là thành viên.
- Thứ nhất, thành lập tổ chức
kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài
 Hình thức doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài là hình thức truyền thống và phổ biến của FDI. Với hình thức
này, các nhà đầu tư, cùng với việc chú trọng khai thác những lợi thế của địa
điểm đầu tư mới, đã nỗ lực tìm cách áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ,
kinh nghiệm quản lý trong hoạt động kinh doanh để đạt hiệu quả cao nhất. Hình
thức này phổ biến ở quy mô đầu tư nhỏ nhưng cũng rất được các nhà đầu tư ưa
thích đối với các dự án quy mô lớn. Hiện nay, các công ty xuyên quốc gia thường
đầu tư theo hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và họ thường thành lập
một công ty con của công ty mẹ xuyên quốc gia.
 Doanh nghiệp 100% vốn đầu
tư nước ngoài thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài nhưng phải chịu sự kiểm
soát của pháp luật nước sở tại (nước nhận đầu tư). Là một pháp nhân kinh tế của
nước sở tại, doanh nghiệp phải được đầu tư, thành lập và chịu sự quản lý nhà
nước của nước sở tại. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc
quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại nước chủ nhà, nhà đầu tư phải tự
quản lý, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Về hình thức pháp lý, dưới
hình thức này, theo Luật Doanh nghiệp 2005, có các loại hình công ty trách
nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần
 Hình thức 100% vốn đầu tư
nước ngoài có ưu điểm là nước chủ nhà không cần bỏ vốn, tránh được những rủi ro
trong kinh doanh, thu ngay được tiền thuê đất, thuế, giải quyết việc làm cho
người lao động. Mặt khác, do độc lập về quyền sở hữu nên các nhà đầu tư nước
ngoài chủ động đầu tư và để cạnh tranh, họ thường đầu tư công nghệ mới, phương
tiện kỹ thuật tiên tiến nhằm đạt hiệu quả kinh doanh cao, góp phần nâng cao
trình độ tay nghề người lao động. Tuy nhiên, nó có nhược điểm là nước chủ nhà
khó tiếp nhận được kinh nghiệm quản lý và công nghệ, khó kiểm soát được đối tác
đầu tư nước ngoài và không có lợi nhuận
- Thứ hai, thành lập doanh
nghiệp liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài
 Đây là hình thức được sử
dụng rộng rãi trên thế giới từ trước tới nay. Hình thức này cũng rất phát triển
ở Việt Nam, nhất là giai đoạn đầu thu hút FDI. DNLD là doanh nghiệp được thành
lập tại nước sở tại trên cơ sở hợp đồng liên doanh ký giữa Bên hoặc các Bên
nước chủ nhà với Bên hoặc các Bên nước ngoài để đầu tư kinh doanh tại nước sở
tại.
 Như vậy, hình thức DNLD tạo
nên pháp nhân đồng sở hữu nhưng địa điểm đầu tư phải ở nước sở tại. Hiệu quả
hoạt động của DNLD phụ thuộc rất lớn vào môi trường kinh doanh của nước sở tại,
bao gồm các yếu tố kinh tế, chính trị, mức độ hoàn thiện pháp luật, trình độ
của các đối tác liên doanh của nước sở tại... Hình thức DNLD có những ưu điểm
là góp phần giải quyết tình trạng thiếu vốn, nước sở tại tranh thủ được nguồn
vốn lớn để phát triển kinh tế nhưng lại được chia sẻ rủi ro; có cơ hội để đổi
mới công nghệ, đa dạng hóa sản phẩm; tạo cơ hội cho người lao động có việc làm
và học tập kinh nghiệm quản lý của nước ngoài; Nhà nước của nước sở tại dễ dàng
hơn trong việc kiểm soát được đối tác nước ngoài. Về phía nhà đầu tư, hình thức
này là công cụ để thâm nhập vào thị trường nước ngoài một cách hợp pháp và hiệu
quả, tạo thị trường mới, góp phần tạo điều kiện cho nước sở tại tham gia hội
nhập vào nền kinh tế quốc tế.     Tuy nhiên, hình thức này có nhược điểm là thường
dễ xuất hiện mâu thuẫn trong điều hành, quản lý doanh nghiệp do các bên có thể
có sự khác nhau về chế độ chính trị, phong tục tập quán, truyền thống, văn hóa,
ngôn ngữ, luật pháp. Nước sở tại thường rơi vào thế bất lợi do tỷ lệ góp vốn
thấp, năng lực, trình độ quản lý của cán bộ tham gia trong DNLD yếu.
- Đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ
phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế
 Đây là hình thức nhà đầu tư
góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế để thực hiện hoạt động
đầu tư. Việc đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế được
quy định tại Điều 24, 25, 26 Luật Đầu tư 2014 và được hướng dẫn chi tiết tại
Điều 46 Nghị định số 118/2015/NĐ-CP. Theo đó, nhà đầu tư nước ngoài được góp
vốn vào tổ chức kinh tế theo các hình thức sau đây:
 a) Mua cổ phần phát hành lần đầu hoặc cổ phần phát hành thêm của công ty cổ phần;
 b) Góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh;
 c) Góp vốn vào tổ chức kinh
tế khác không thuộc trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản này.
 
 Nhà đầu tư nước ngoài mua
cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế theo các hình thức sau đây:
 a) Mua cổ phần của công ty
cổ phần từ công ty hoặc cổ đông;
 b) Mua phần vốn góp của các
thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn để trở thành thành viên của công ty
trách nhiệm hữu hạn;
 c) Mua phần vốn góp của
thành viên góp vốn trong công ty hợp danh để trở thành thành viên góp vốn của
công ty hợp danh;
 d) Mua phần vốn góp của
thành viên tổ chức kinh tế khác không thuộc trường hợp quy định tại các điểm a,
b và c khoản này;
 Việc góp vốn, mua cổ phần,
phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài theo các hình thức nêu trên phải đáp ứng
điều kiện đầu tư áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài như đối với trường hợp
đầu tư thành lập tổ chức kinh tế.
 Hình thức mua cổ phần hoặc
mua lại toàn bộ doanh nghiệp có ưu điểm cơ bản là để thu hút vốn và có thể thu
hút vốn nhanh, giúp phục hồi hoạt động của những doanh nghiệp bên bờ vực phá
sản. Nhược điểm cơ bản là dễ gây tác động đến sự ổn định của thị trường tài
chính. Về phía nhà đầu tư, đây là hình thức giúp họ đa dạng hoá hoạt động đầu
tư tài chính, san sẻ rủi ro nhưng cũng là hình thức đòi hỏi thủ tục pháp lý rắc
rối hơn và thường bị ràng buộc, hạn chế từ phía nước chủ nhà
- Đầu tư theo hình thức hợp
đồng PPP (Public Private Partnerships)
 Hình thức đầu tư theo hợp
đồng PPP được quy định tại Điều 27 Luật đầu tư 2014 và được hướng dẫn cụ thể
tại Nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ  về đầu tư
theo hình thức đối tác công tư. Theo đó,  đầu tư theo hình thức đối tác
công tư (PPP) là hình thức đầu tư được thực hiện trên cơ sở hợp đồng giữa cơ
quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để thực hiện,
quản lý, vận hành dự án kết cấu hạ tầng, cung cấp dịch vụ công
 Theo quy định tại Nghị định
số 15/2015/NĐ-CP thì có 7 loại hợp đồng dự án theo hình thức đối tác công tư
bao gồm:
- Hợp đồng Xây dựng - Chuyển
giao - Kinh doanh (hợp đồng BTO) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có
thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn
thành công trình, nhà đầu tư chuyển giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và
được quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định.
- Hợp đồng Xây dựng - Chuyển
giao (hợp đồng BT) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và
nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; nhà đầu tư chuyển giao công
trình đó cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được thanh toán bằng quỹ đất để
thực hiện Dự án khác theo các điều kiện quy định tại Khoản 3 Điều 14 và Khoản 3
Điều 43 Nghị định số 15/2015/NĐ-CP.
- Hợp đồng Xây dựng - Sở hữu
- Kinh doanh (hợp đồng BOO) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn thành
công trình, nhà đầu tư sở hữu và được quyền kinh doanh công trình đó trong một
thời hạn nhất định
- Hợp đồng Xây dựng - Chuyển
giao - Thuê dịch vụ (hợp đồng BTL) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có
thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn
thành công trình, nhà đầu tư chuyển giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và
được quyền cung cấp dịch vụ trên cơ sở vận hành, khai thác công trình đó trong
một thời hạn nhất định; cơ quan nhà nước có thẩm quyền thuê dịch vụ và thanh
toán cho nhà đầu tư theo các điều kiện quy định tại Khoản 2 Điều 14 Nghị định
số 15/2015/NĐ-CP
- Hợp đồng Xây dựng - Thuê
dịch vụ - Chuyển giao (hợp đồng BLT) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước
có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn
thành công trình, nhà đầu tư được quyền cung cấp dịch vụ trên cơ sở vận hành,
khai thác công trình đó trong một thời hạn nhất định; cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thuê dịch vụ và thanh toán cho nhà đầu tư theo các điều
kiện quy định tại Khoản 2 Điều 14 Nghị định số 15/2015/NĐ-CP; hết thời hạn cung
cấp dịch vụ, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho cơ quan nhà nước có thẩm
quyền.
- Hợp đồng Kinh doanh - Quản
lý (hợp đồng O&M) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền
và nhà đầu tư để kinh doanh một phần hoặc toàn bộ công trình trong một thời hạn
nhất định.
 Lĩnh vực, điều kiện, thủ
tục thực hiện dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng PPP được Chính phủ quy định
chi tiết tại Nghị định 15/2015/NĐ-CP.
 
- Đầu tư theo hình thức hợp
đồng BCC (Business Cooperation Contract)
 Theo quy định tại Luật Đầu
tư 2014 thì Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) là hợp đồng được ký giữa các nhà
đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không
thành lập tổ chức kinh tế. Các bên tham gia hợp đồng BCC thành lập ban điều
phối để thực hiện hợp đồng BCC. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ban điều
phối do các bên thỏa thuận.
 Như vậy,  đầu tư theo
hình thức hợp đồng BCC là hình thức đầu tư được thiết lập trên cơ sở hợp đồng
ký kết giữa các nhà đầu tư nhưng không thành lập pháp nhân mới. Trong đó, quyền
và nghĩa vụ của các bên không có sự ràng buộc về mặt tổ chức như ở các hình
thức đầu tư thành lập pháp nhân mới mà chỉ ràng buộc với nhau bởi hợp đồng.
 Hợp đồng BCC gồm những nội
dung chủ yếu sau đây:
- Tên, địa chỉ, người đại
diện có thẩm quyền của các bên tham gia hợp đồng; địa chỉ giao dịch hoặc địa
chỉ nơi thực hiện dự án;
- Mục tiêu và phạm vi hoạt
động đầu tư kinh doanh
- Đóng góp của các bên tham
gia hợp đồng và phân chia kết quả đầu tư kinh doanh giữa các bên;
- Tiến độ và thời hạn thực
hiện hợp đồng;
- Quyền, nghĩa vụ của các bên
tham gia hợp đồng;
- Sửa đổi, chuyển nhượng,
chấm dứt hợp đồng;
- Trách nhiệm do vi phạm hợp
đồng, phương thức giải quyết tranh chấp.
    Trong quá trình thực hiện hợp đồng BCC, các bên tham gia hợp đồng được thỏa thuận sử dụng tài sản hình thành từ việc hợp tác kinh doanh để thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức đầu tư được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp nhân.
    Hình thức đầu tư này có ưu điểm là giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn, công nghệ; tạo thị trường mới, bảo đảm được quyền điều hành dự án của nước sở tại, thu lợi nhuận tương đối ổn định. Tuy nhiên, nó có nhược điểm là nước sở tại không tiếp nhận được kinh nghiệm quản lý; công nghệ thường lạc hậu; chỉ thực hiện được đối với một số ít lĩnh vực dễ sinh lời như thăm dò dầu khí.
III. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với Việt Nam
Nguồn vốn đầu tư trưc tiếp
nước ngoài có tác động không nhỏ đối với các nước nhận đầu tư, đặc biệt các
nước đang phát triển như Việt Nam trên cả hai mặt: tích cực và tiêu cực.
1. Tác động tích cực.
    Thứ nhất, nguồn vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài đã bổ xung một nguồn vốn quan trọng bù đắp sự thiếu hụt
vốn đầu tư cho phát triển kinh tế.
    Thứ hai, đầu tư trực tiếp
đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại
hoá. Để tham gia ngày càng nhiều vào quá trình phân công lao động quốc tế , thu
hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài đòi hỏi mỗi quốc gia phải thay đổi cơ
cấu kinh tế của mình cho phù hợp. Mặt khác, sự gia tăng của hoạt động đầu tư
nước ngoài làm xuất hiện nhiều ngàng mới, lĩnh vực mới góp phần thúc đẩy sự
phát tiển nhanh chóng trình độ kĩ thuật-công nghệ của nhiều ngành kinh tế thúc
đẩy sự gia tăng năng suất lao động ở các ngành này và tăng tỷ phần của nó trong
nên kinh tế.
    Thứ ba, hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài đã góp phần phát triển nguồn nhân lực, tạo việc làm và
tăng thu nhập cho người lao động. Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài thường
đòi hỏi nguồn lao động có chất lượng cao do đó sự gia tăng các dự án đầu tư
nước ngoài đã đặt ở các nước sở tại trước yêu cầu khách quan là phải nâng cao
chất lượng, trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ ngoại ngữ... cho người lao
động
    Thứ tư, hoạt động của các
dự án đầu tư nước ngoài đã góp phần tăng tỷ trọng xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu,
tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước 
    Thứ năm, đầu tư trực tiếp
nước ngoài thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia này. Tận dụng, tranh
thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, các nước đang phát triển đã sử dụng để thực
hiện các mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế nhằm đẩy mạnh tốc độ tăng
trưởng kinh tế, thoát khỏi vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói.
2. Tác động tiêu cực
Bên cạnh những ưu điểm
trên, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài còn bộc lộ nhiều mặt hạn chế.
    Một là, đầu tư nước ngoài
đã tạo ra một cơ cấu bất hợp lí. Mục đích của các nhà đầu tư nước ngoài là tìm
kiếm lợi nhuận ngày càng nhiều do đó họ chủ yếu đâù tư vào các ngành công
nghiệp, dịch vụ nơi có mức tỷ suất lợi nhuận cao.
    Hai là, hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài mang lại hiện tượng “chảy máu chất xám”. Các nhà đầu tư
nước ngoài đã tạo điều kiện thuận lợi về thu nhập, việc làm do đó đã lôi kéo
một bộ phận không nhỏ cán bộ khoa học, nhà nghiên cứu, công nhân lành nghề của
nước ta về làm việc cho họ
    Ba là, chuyển giao công
nghệ lạc hậu. Dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật, quá
trình nghiên cứu- ứng dụng ngày càng được rút ngắn, máy móc thiết bị nhanh
chóng trở nên lạc hậu. Để loại bỏ chúng, nhiều nhà đầu tư đã cho chuyển giao
sang các nước nhận đầu tư như một phần vốn góp . Việc làm đó đã làm cho trình
độ công nghệ của các nước nhận đầu tư ngày càng lạc hậu.
    Bốn là, chi phí để tiếp
nhận vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn. Các nước nhận đầu tư đã phải áp dụng
nhiều ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài như: giảm thuế, miễn thuế, giảm tiền
thuê đất, nhà xưởng ...
    Năm là, hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài đã tạo ra sự cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước.
Với ưu thế về vốn, công nghệ, các dự án đầu tư nước ngoài đã đặt các doanh
nghiệp trong nước vào vòng xoáy cạnh tranh khốc liệt về thị trường, lao động và
các nguồn lực khác.
    Sáu là, các tác động tiêu
cực khác. Hoạt động đầu tư trực tiép nước ngoài còn có thể gây ra những bất ổn
về chính trị, mang theo nhiều tệ nạn xã hội mới xâm nhập vào nước ta.
IV. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
KHẢ NĂNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
    Đầu tư nước ngoài là một
hoạt động kinh tế có vai trò rất lớn đối với các nước trên thế giới, đặc biệt
là các nước đang phát triển. Tuy thế, việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài lại chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố chủ quan và khách quan.
- Luật đầu tư: Nhân tố này sẽ kìm hãm hoặc thúc đẩy sự gia tăng
của hoạt dộng đầu tư trực tiếp nước ngoài thông qua cơ chế, chính sách, thủ
tục, ưu đãi, được qui định trong luật.
- Ổn định chính trị: Đây là nhân tố không thể xem thường bởi vì rủi
ro chính trị có thể gây thiệt hại lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài.
- Cơ sở hạ tầng: Việc xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng như
giao thông, vận tải, thông tin liên lạc, điện nước ... sẽ tạo điều kiện thuận
lợi cho việc thực hiện các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Đặc điểm thị trường của
nước nhận vốn: Đây có thể nói là yếu tố
hàng đầu ảnh hưởng đến việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Nó được thể hiện ở
qui mô, dung lượng của thị trường, sức mua của các tầng lớp dân cư trong nước,
khả năng mở rộng qui mô đầu tư ..., đặc biệt là sự hoạt động của thị trường
nhân lực. Mặt khác, với giá nhân công rẻ sẽ là mối quan tâm hàng đầu của các
nhà đầu tư nước ngoài, nhất là với những dự án đầu tư vào lĩnh vực sử dụng
nhiều lao động. Ngoài ra trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ học vấn, khả
năng quản lý... cũng có ý nghĩa nhất định. Bởi vậy, lợi thế về thị trường sẽ có
sức hút rất lớn đối với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Khả năng hồi hương của vốn: Mặt khác, khả năng hồi của vốn cũng sẽ ảnh
hưởng không nhỏ tơi khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nếu vốn và lợi
nhuận đợc tự do qua lại biên giới.
- Chính sách tiền tệ: Mức độ ổn định của chính sách tiền tệ và mức
độ rủi ro của tiền tệ ở nước nhận vốn đầu tư là một nhân tố góp phần mở rộng
hoạt động xuất khẩu của các nhà đầu tư. Tỷ giá hối đoái cao hay thấp đều ảnh
hưởng tới hoạt động xuất nhập khẩu. Mức độ lạm phát của nền kinh tế sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến chi phí sản xuất, lợi nhuận thu được của các dự án có tỷ lệ
nội địa hoá trong sản phẩm cao.
- Các chính sách kinh tế vĩ
mô: Các chính sách này mà ổn
định sẽ góp phần thuận lợi cho hoạt động của các nhà đầu tư nước ngoài. Không
có những biện pháp tích cực chống lạm phát có thể làm các nhà đầu tư nản lòng
khi đầu tư vào các nước này. Một chính sách thương mại hợp lý với mức thuế
quan, hạn ngạch và các hàng rào thương mại sẽ kích thích hoặc hạn chế đến việc
thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
    Ngoài ra, hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài còn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau: hiệu quả
sử dụng vốn của nền kinh tế, bảo vệ quyền sở hữu .
    Vì vậy, để hoạt động thu
hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài diễn ra một cách thuận lợi thì chúng ta cần
xem xét, đánh giá sự ảnh hưởng của các nhân tố trên trong mối quan hệ biện
chứng nhằm tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước.
    Vốn đầu tư nước ngoài góp
một phần không nhỏ vào tổng vốn đầu tư xã hội, góp phần thực hiện quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế xã hội. Trong điều kiện hiện
nay, đặc biệt sau sự kiện Việt Nam gia nhập WTO, nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã
chú ý tới thị trường Việt Nam và triển vọng về một dòng vốn đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam là rất lớn. Vì vậy, vấn đề thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước
ngoài ở Việt Nam hiện nay đang được rất nhiều người quan tâm.
  
Những điểm mới trong luật tạm giữ, tạm giam
Tháng Ba 22, 2019