Skip to main content

Giới hạn quyền tác giả trong việc sao chép và trích dẫn tác phẩm

I. Quy định về giới hạn quyền tác giả trong việc sao chép và trích dẫn tác phẩm

1. Điều kiện sử dụng giới hạn quyền tác giả trong việc sao chép và trích dẫn tác phẩm

       Điều kiện quan trọng nhất trong quy định pháp luật Việt Nam và việc tác phẩm đã công bố. Điều này cũng đã minh chứng cho việc dù giới hạn đặt ra cho độc quyền của chủ sở hữu quyền nhưng ở một góc độ nào đó, pháp luật vẫn đang cố gắng bảo vệ quyền lợi cho người sáng tạo hoặc đầu tư tạo ra tác phẩm. Điều này cũng đang hỗ trợ cho tác giả đem đến tác phẩm thật sự có giá trị cho xã hội, như vậy chỉ khi nào tác phẩm được công bố thì các giới hạn quyền mới được đặt ra. Tại Khoản 2 Điều 20 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP quy định quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm là việc phát hành tác phẩm đến công chúng với số lượng bản sao hợp lý để đáp ứng nhu cầu của công chúng tùy theo bản chất của tác phẩm và công bố tác phẩm không bao gồm việc trình diễn một tác phẩm sân khấu, điện ảnh, âm nhạc; đọc trước công chúng một tác phẩm văn học; phát sóng tác phẩm văn học, nghệ thuật; trưng bày tác phẩm tạo hình; xây dựng công trình từ tác phẩm kiến trúc. 

2. Giới hạn quyền tác giả trong trường hợp sao chép tác phẩm đã công bố nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy, lưu trữ trong thư viện

Trong các giới hạn quyền tác giả thì điểm chú ý là việc sao chép một bản nhằm mục đích giảng dạy, nghiên cứu khoa học. Một góc nhìn rất đơn giản về việc được quyền sao chép chỉ trong một bản duy nhất cho việc nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân. Một bản duy nhất này còn được gói gọn trong việc sử dụng theo điểm a, khoản 1 Điều 25 Luật sở hữu trí tuệ là không nhằm mục đích thương mại và khoản 1 Điều 22 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP. Pháp luật Việt Nam ghi nhận việc sao chép là độc quyền của chủ sở hữu chỉ được ghi nhận giới hạn quyền này trong việc sao chép tác phẩm lưu trữ trong thư viện tại điểm d khoản 1 Điều 25 Luật SHTT: “Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu”. Cụ thể được hướng dẫn tại khoản 2 Điều 22 Nghị định của Chính phủ số 22/2018/NĐ-CP quy định:“Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 25 của Luật Sở hữu trí tuệ là việc sao chép không quá một bản. Thư viện không được sao chép và phân phối bản sao tác phẩm tới công chúng, kể cả bản sao kỹ thuật số.”Theo đó, trong trường hợp này, thư viện chỉ được phép sao chép không quá một bản và không được phân phối bản sao tác phẩm tới công chúng, kể cả bản sao kỹ thuật số.

3. Giới hạn quyền tác giả trong việc sử dụng tác phẩm nhằm mục đích trích dẫn hợp lý tác phẩm

Tiếp nối một giới hạn quyền tác giả trong việc sử dụng tác phẩm hiện nay đó là việc trích dẫn hợp lý tác phẩm nhằm mục đích bình luận, minh họa, viết báo, giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý của tác giả, không nhằm mục đích thương mại4. Tại Điều 23 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP về trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa trong tác phẩm của mình với điều kiện phần trích dẫn chỉ nhằm mục đích giới thiệu, bình luận hoặc làm sáng tỏ vấn đề được đề cập trong tác phẩm của mình hoặc phần trích dẫn từ tác phẩm được sử dụng để trích dẫn không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được sử dụng để trích dẫn và phù hợp với tính chất, đặc điểm của loại hình tác phẩm được sử dụng để trích dẫn. 

4. Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật

Thứ nhất, trong giới hạn quyền tác giả nói chung được ghi nhận tại Điều 25 và Điều 26 của Luật sở hữu trí tuệ đều hướng đến điều kiện tiên quyết đó là chỉ áp dụng cho tác phẩm đã công bố. Tuy nhiên vẫn có một số tác phẩm được loại trừ không áp dụng như tác phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo hình, chương trình máy tính và tác phẩm điện ảnh. Chính vì vậy xem xét thực tế và quy định pháp luật có thể thấy rằng việc xác định theo như quy định hiện nay cũng chưa được rõ ràng và có vẻ nằm trong khuôn khổ khá hẹp về các quyền sẽ trao cho người sử dụng. Theo tác giả, có thể ghi nhận việc công bố tác phẩm thông qua việc thể hiện tác phẩm trước công chúng và người sử dụng có thể tiếp cận một cách công khai và hợp pháp theo ý của tác giả chẳng hạn như việc tác giả phát hành tác phẩm đến công chúng với số lượng bản sao hợp lý hoặc trình diễn một tác phẩm sân khấu, điện ảnh, âm nhạc hoặc đọc trước công chúng một tác phẩm văn học hay phát sóng tác phẩm văn học, nghệ thuật và cả việc trưng bày tác phẩm tạo hình, xây dựng công trình từ tác phẩm kiến trúc. Về điều này một số quốc gia trên thế giới cũng thừa nhận. Bên cạnh đó, việc ghi nhận mở rộng phạm vi “công bố” sẽ tạo kênh pháp lý và căn cứ rõ ràng để xác định hành vi sử dụng ấy có xâm phạm quyền sao chép hay trích dẫn hay không.

Thứ hai, đối với trường hợp sao chép tác phẩm đã công bố nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy, lưu trữ thư viện như hiện nay quy định là được một bản thì có vẻ máy móc và hạn hẹp quyền lợi của người sử dụng trong trường hợp này. Trong môi trường giáo dục thì chỉ cần không vì mục đích thương mại sẽ được sao chép tác phẩm đã công bố theo mức độ cần thiết. Đối với số lượng không nên giới hạn một bản sao trong trường hợp này. Tuy nhiên chúng ta có thể rào cản bằng việc sử dụng không làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường của tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả. Điều đáng nói thêm là việc ghi nhận theo điểm a khoản 1 Điều 25 Luật sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi bổ sung năm 2009) chỉ giới hạn trong việc giảng dạy, nghiên cứu khoa học, vậy thì còn học tập cũng nên được thừa nhận trong trường hợp này, bởi trong môi trường giáo dục, việc học tập là một hoạt động thường xuyên và cần thiết. Thế nên về mặt từ ngữ, điểm a khoản 1 Điều 25 Luật sở hữu trí tuệ, sau khi sửa đổi, bổ sung được viết thành: “Tự sao chép một bản nhằm mục đích học tập, nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân”. Bên cạnh đó, đối với việc lưu trữ thư viện thì số lượng bản sao không nên giới hạn là một, chỉ cần nhằm mục đích phục vụ cho công chúng và lưu trữ.

Thứ ba, điểm nhấn được đề cập là vấn đề trích dẫn thế nào để được xem xét là hợp lý và được rơi vào điểm ngoại lệ trong việc độc quyền sử dụng của chủ thể quyền tác giả. 

  • Khái niệm trích dẫn: Là sự tái tạo chính xác một đoạn văn bản mà không có sửa chữa gì, phân biệt với đoạn văn bản xung quanh bằng dấu trích dẫn hoặc các yếu tố định dạng, dựa theo một nguồn đáng tin cậy

  • Các trường hợp trích dẫn tác phẩm: 

  • Trích dẫn tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa trong tác phẩm của mình. Trong đó, phần trích dẫn chỉ nhằm mục đích giới thiệu, bình luận hoặc làm sáng tỏ vấn đề được đề cập trong tác phẩm của mình. Phần trích dẫn từ tác phẩm được sử dụng để trích dẫn không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được sử dụng để trích dẫn; phù hợp với tính chất, đặc điểm của loại hình tác phẩm được sử dụng để trích dẫn.

  • Trích dẫn tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để viết báo, dùng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu;

  • Trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả, không nhằm mục đích thương mại;

II. Kết luận

        Trong giới hạn quyền tác giả nói chung được ghi nhận theo nguyên tắc cân bằng lợi ích giữa chủ thể quyền và lợi ích của công chúng cần được đề cao và quan tâm. Trong đó vấn đề giới hạn này được sử dụng nhiều nhất trong việc trích dẫn và sao chép tác phẩm, bởi sự cần thiết trong các hoạt động giáo dục cũng như nghiên cứu khoa học. Chính vì vậy, việc hoàn thiện quy định pháp luật về các trường hợp này sẽ hỗ trợ rất nhiều trong việc vừa bảo vệ tốt quyền tác giả, vừa bảo vệ quyền lợi của công chúng trong nhu cầu cần thiết được tiếp cận các tác phẩm một cách dễ dàng hơn.



Chat Zalo: 0902198579

Copyright © 2019 OPIC LAW All Right Reserved