Người có quyền loại và nghĩa vụ liên quan trong tố tụng dân sự
  Vụ án dân sự theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện nay đó là các tranh chấp nảy sinh từ các quan hệ hôn nhân và gia đình, lao động, kinh doanh, thương mại, đất đai, nhà ở và các quan hệ dân sinh trong đời sống xã hội. Việc các chủ thể của những quan hệ đó có tranh chấp và được cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước giải quyết được gọi là các vụ án dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự thì đương sự là chủ thể không thể thiếu.Trong tiếng việt “đương sự” được hiểu “là người, là đối tượng trong một sự việc nào đó được đưa ra giải quyết”. Như vậy theo nghĩa chung nhất thì đương sự chỉ là người, là đối tượng trong một vụ việc nào đó được đưa ra giải quyết trong cuộc sống hàng ngày. Đương sự trong tố tụng dân sự bao gồm: nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Mặc dù cũng được gọi với khái niệm chung là “đương sự” nhưng mỗi trường hợp lại nhưng mỗi trường hợp lại có các quy định pháp luật về quyền, nghĩa vụ và tư cách tố tụng khác nhau.
I. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng dân sự theo quy định của BLTTDS năm 2015
- Khái quát về đương sự trong tố tụng dân sự
- Khái niệm đương sự trong vụ án dân sự
- Vụ án dân sự là những việc phát sinh tại Tòa án do các đương sự khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, lợi ích công cộng, lợi ích nhà nước hay quyền, lợi ích hợp pháp của người khác đang bị tranh chấp. Trong các vụ án dân sự có một số người tham gia tố tụng có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án dân sự tham gia với mục đích là bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Trong một số trường hợp tuy họ không có quyền lợi ích liên quan đến vụ án dân sự nhưng lại tham gia tố tụng để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước trong lĩnh vực được tham gia phụ trách. Họ có thể là cá nhân, cơ quan hay tổ chức (có tư cách pháp nhân và không có tư cách pháp nhân).
- Theo Điều 68 BLTTDS 2015 quy định: 
 “ Đương sự trong vụ án dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.Đương sự trong việc dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm người yêu cầu giải quyết việc dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.”
- Năng lực pháp luật và năng lực hành vi tố tụng dân sự của đương sự
- Năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự là hai yếu tố cấu thành năng lực chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Đương sự là một loại chủ thể của quan hệ pháp luật TTDS nên để tham gia vào quan hệ pháp luật TTDS thì đương sự phải có năng lực pháp luật TTDS và năng lực hành vi TTDS.
- Theo khoản 1 Điều 69 BLTTDS 2015
- “1. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự là khả năng có các quyền, nghĩa vụ trong tố tụng dân sự do pháp luật quy định. Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân có năng lực pháp luật tố tụng dân sự như nhau trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.”
Như vậy, đặc trưng cơ bản của quan hệ pháp luật TTDS là các chủ thể có quyền bình đẳng về quyền và nghĩa vụ.
Năng lực pháp luật TTDS của cá nhân bao giờ cũng gắn liền với sự tồn tại của cá nhân từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi cá nhân đó chết. Năng lực pháp luật TTDS  của tổ chức xuất hiện khi tổ chức đó được thành lập và chấm dứt khi tổ chức đó không còn tồn tại
- Cũng tại Khoản 2 Điều 69 BLTTDS 2015 quy định:
- “2. Năng lực hành vi tố tụng dân sự là khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng dân sự.” 
- Khác với năng lực pháp luật tố tụng của đương sự là như nhau thì năng lực hành vi tố tụng dân sự của đương sự là khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ TTDS hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia TTDS. Năng lực hành vi TTDS là yếu tố luôn có sự biến động và được xác định ở các mức độ khác nhau.
- Năng lực hành vi TTDS có mối quan hệ mật thiết với năng lực hành vi dân sự, cũng như năng lực pháp luật TTDS, một chủ thể được xác định là có năng lực hành vi TTDS nếu chủ thể đó có năng lực hành vi dân sự.
- Với các khoản 3,4,5,6,7 ở Điều 69 bộ luật này cũng có quy định về các trường hợp đương sự khác nhau, sẽ có những quy định về năng lực hành vi TTDSvà năng lực pháp luật TTDS riêng.
 
- Đương sự trong vụ án dân sự
 
- Đương sự trong vụ án dân sự khá phong phú, đa dạng gồm: nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự (người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập).
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
Nguyên đơn, bị đơn trong vụ án dân sự bao gồm cả người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Bởi vì khi giải quyết vụ án dân sự để giải quyết tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn thì có thể ảnh hưởng tới quyền, lợi ích của người thứ ba. Để giải quyết vụ án toàn diện, triệt để đòi hỏi cần thiết có sự tham gia của người thứ ba này với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Khoản 4 Điều 68 BLTTDS năm 2015 quy định:
- “4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trường hợp việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của một người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án phải đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.”
- Như vậy, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hiểu một cách chung nhất là người tham gia tố tụng vào vụ án đã phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác với nguyên đơn và bị đơn, họ không phải là người khởi kiện cũng không phải là người bị kiện. Việc tham gia tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự có thể do họ chủ động hoặc theo yêu cầu của đương sự khác hoặc theo yêu cầu của TA. Do đó để có thể xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án dân sự mà TA đang giải quyết, đồng thời phải được TA đưa họ vào tham gia tố tụng do thấy cần thiết hoặc theo yêu cầu của chính họ.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có hai loại: người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập hay còn gọi là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng đứng về phía nguyên đơn hoặc bị đơn.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia vào vụ án dân sự đã xảy ra giữa nguyên đơn và bị đơn để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, việc tham gia tố tụng của họ độc lập với nguyên đơn, bị đơn. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập cho rằng đối tượng, phần đối tượng tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn là thuộc về họ chứ không phải thuộc về nguyên đơn hay bị đơn. Do vậy, yêu cầu của họ chỉ chống lại nguyên đơn hoặc chỉ chống lại bị đơn. Tuy nhiên trong mọi trường hợp yêu cầu của họ đều độc lập với yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn và không phụ thuộc vào yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn. Vì có yêu cầu độc lập với cả nguyên đơn và bị đơn, do vậy thông thường người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có đủ điều kiện pháp lý để kiện vụ án dân sự để TA giải quyết yêu cầu của mình, nhưng do vụ án dân sự đã phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn, nên họ phải tham gia tố tụng để để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, nếu không tham gia ngay vào vụ án dân sự đã phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn mà khởi kiện thành vụ án dân sự khác để bảo vệ quyền lợi cho mình thì việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ sau đó sẽ gặp khó khăn phức tạp hơn. Khi đó, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ luôn phụ thuộc vào việc tham gia tố tụng của nguyên đơn hoặc bị đơn.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng đứng về phía nguyên đơn và bị đơn do có quyền, lợi ích luôn phụ thuộc và gắn liền với quyền và lợi ích của nguyên đơn hoặc bị đơn nên họ không thể đưa ra yêu cầu độc lập với yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn mà yêu cầu của họ bao giờ cũng đi kèm và phụ thuộc vào yêu cầu của nguyên đơn hoặc bị đơn. Vì vậy, họ không thể khởi kiện để TA giải quyết mà quyền lợi của họ sẽ được giải quyết ngay trong vụ án đã phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn.
3. Quyền, nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Quyền và nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quy định theo Điều 73 BLTTDS 2015:
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền, nghĩa vụ sau đây:
- Các quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 70 của Bộ luật này;
- Có thể có yêu cầu độc lập hoặc tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và yêu cầu độc lập này có liên quan đến việc giải quyết vụ án thì có quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn quy định tại Điều 71 của Bộ luật này. Trường hợp yêu cầu độc lập không được Tòa án chấp nhận để giải quyết trong cùng vụ án thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền khởi kiện vụ án khác.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nếu tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc chỉ có quyền lợi thì có quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn quy định tại Điều 71 của Bộ luật này.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nếu tham gia tố tụng với bên bị đơn hoặc chỉ có nghĩa vụ thì có quyền, nghĩa vụ của bị đơn quy định tại Điều 72 của Bộ luật này.” 
Như vậy, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của đương sự khi tham gia vào vụ án dân sự được quy định đầy đủ tại Điều 70 của Bộ luật này. Quyền và nghĩa vụ của đương sự được thể hiện trong các lĩnh vực như sử dụng các biện pháp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trước tòa án; quyết định quyền, lợi ích của mình trong tố tụng dân sự; thi hành bản án, quyết định của tòa án; khiếu nại, tố cáo các hành vi trái pháp luật của cá nhân, cơ quan, tổ chức, trong quá trình tố tụng. Việc thức hiện các quyền và nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự có ý nghĩa nhất định đối với quá trình giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự.
4. Việc xác định tư cách của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Trong tố tụng dân sự, việc xác định người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ kiện là vấn đề hết sức quan trọng, nếu xác định không đúng hoặc không đầy đủ người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của họ và vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Ví dụ: Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng A có mượn bà C  một khoản tiền để xây nhà. Nay vợ chồng A ly hôn và có yêu cầu toà án phân chia khối tài sản chung của vợ chồng.
- Trong trường hợp này, bà C được xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
Theo quy định tại Điểm b khoản 1 điều 73 BLTTDS năm 2015  thì, trong vụ án dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có thể tham gia tố tụng với một trong ba tư cách sau:
- Tham gia tố tụng độc lập. Tức là không đứng về phía nguyên đơn hay bị đơn, mà chỉ đề nghị toà án xem xét giải quyết đối với yêu cầu độc lập của mình trong vụ án.
- Tham gia tố tụng theo nguyên đơn, là trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập, mà đứng về phía nguyên đơn, tham gia tố tụng vụ án theo nội dung và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- ham gia tố tụng theo bị đơn, là trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập, mà đứng về phía bị đơn, cùng tham gia tố tụng vụ án theo yêu cầu phản tố hoặc ý kiến phản đối của bị đơn đối với nguyên đơn.
Theo quy định tại Khoản 2 điều 73 và Điều 201 BLTTDS thì,  người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, có quyền đưa ra yêu cầu độc lập khi có các điều kiện sau đây:
- Việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ;
- Yêu cầu độc lập của họ có liên quan đến vụ án đang giải quyết;
- Yêu cầu độc lập của họ được giải quyết trong cùng một vụ án làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn.
Thời điểm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu độc lập được xác định là: trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp nhận, công khai chứng cứ và hoà giải.
Điều đó cũng có nghĩa, sau thời điểm này, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan sẽ mất đi quyền đưa ra yêu cầu độc lập, mà chỉ có thể yêu cầu toà án giải quyết yêu cầu độc lập của mình bằng một vụ án khác.
Cũng như việc chứng minh của nguyên đơn hay bị đơn có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập phải chứng minh để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.
Tuỳ thuộc vào nội dung yêu cầu mà người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan xác định phạm vi và trách nhiệm chứng minh của mình trong vụ án
Ví dụ: A khởi kiện B trong vụ án tranh chấp tài sản sau ly hôn. Theo đó A cho rằng, phần nhà đất hiện đang tranh chấp là tài sản chung của vợ chồng nên yêu cầu Tòa án chia đôi. C là mẹ của B khẳng định, phần đất gắn liền với nhà ở của vợ chồng A. thuộc sở hữu của C và C chỉ cho vợ chồng A xây nhà để ở tạm. Nay vợ chồng A ly hôn và có yêu cầu chia tài sản thì chỉ được chia phần giá trị xây dựng nhà, còn phần giá trị đất phải hoàn trả lại cho C.
- Trong vụ án này, C được xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Do vậy, C phải có trách nhiệm chứng minh phần đất này thuộc quyền quản lý, sử dụng hợp pháp của C và C chỉ cho vợ chồng A xây nhà tạm để ở, chứ không chuyển giao quyền sở hữu bằng bất kỳ một giao dịch tặng cho hay mua bán, chuyển nhượng nào.
Ở đây cũng cần lưu ý rằng, theo tinh thần quy định tại Điều 202 BLTTDS thì thủ tục yêu cầu phản tố của bị đơn cũng như yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, được thực hiện như thủ tục khởi kiện của nguyên đơn.
- Vì vậy, để yêu cầu độc lập của mình được toà án xem xét giải quyết trong cùng vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập, phải có “Đơn yêu cầu” gửi đến toà án, kèm theo các tài liệu, chứng cứ, chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp.
- Theo điểm d khoản 2 Điều 227 trong trường hợp Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu độc lập của người có quyền và lợi ích liên quan do họ đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt tại phiên toà, thì người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu đó, nếu còn thời hiệu.
- Pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể về người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Nên dựa vào các quy định có liên quan đến người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có thể thấy, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập là người tham gia tố tụng dân sự đứng về phía nguyên đơn hoặc bị đơn và họ không có yêu cầu tố tụng trước Tòa án. Như vậy, việc xác định tư cách tố tụng của họ phụ thuộc vào bên nguyên đơn hoặc bị đơn có yêu cầu hoặc phụ thuộc vào Tòa án
 
II. Thực trạng quy định 
    BLTTDS ra đời đã đáp ứng được các yêu cầu thực tiễn của đời sống kinh tế - xã hội và các yêu cầu hội nhập, hợp tác quốc tế. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khác nhau, các quy định về đương sự trong vụ án dân sự đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập cần phải có nghiên cứu, đánh giá kịp thời để có phương hướng hoàn thiện. 
- Thứ nhất, BLTTDS 2015 vẫn chưa có quy định củ thể về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng đứng về phía nguyên đơn hoặc bị đơn, và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập. Pháp luật mới chỉ dừng lại ở những quy định về việc xác định tư cách tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập mà chưa quy định cụ thể để xác định tư cách tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không độc lập.
- Thứ hai, Thực tiễn thực hiện pháp luật về tố tụng dân sự đã cho thấy rất nhiều trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gặp những vướng mắc do những quy định của pháp luật chưa đủ rõ ràng, chi tiết về vấn đề này.
Ví dụ: Trong thời gian qua, không ít vụ án liên quan đến tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng vay mà tòa án gần như không thể giải quyết được do có quá nhiều người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nên tòa không thể triệu tập được hết những người này tham gia tố tụng.
Trên thực tế, vướng mắc hay xảy ra nhất đối với các khoản vay được bảo đảm bằng tài sản là tòa nhà có chức năng cho thuê làm văn phòng, để ở hoặc tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất có tài sản gắn liền trên đất là nhiều phòng trọ đang cho thuê. Người thuê có thể là công ty, cá nhân và hộ gia đình. Số lượng có thể dao động từ vài chục đến vài trăm trăm người.
Nếu chiếu theo quy định trên của BLTTDS, khi giải quyết vụ án, tòa án cấp sơ thẩm có nghĩa vụ phải triệu tập đầy đủ tất cả những người thuê này với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia các giai đoạn tố tụng (giai đoạn chuẩn bị xét xử, hòa giải và xét xử). Đồng thời, tòa án phải thực hiện đầy đủ các thủ tục tống đạt hợp lệ các văn bản, quyết định liên quan đến tố tụng cho họ (như triệu tập lấy lời khai, đối chất làm rõ vụ việc, hòa giải, đưa vụ án ra xét xử, tạm hoãn, tạm đình chỉ...).
Chính vì vậy mà đối với những vụ án như thế này, chủ tài sản luôn có tâm lý chẳng việc gì phải hợp tác với tòa, thậm chí chủ tài sản còn cố tình ký thêm nhiều hợp đồng cho thuê kể cả giả tạo nhằm tăng số lượng người thuê nhằm làm cho vụ án đã phức tạp nay càng phức tạp và kéo dài hơn.
BLTTDS quy định tòa phải đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người liên quan nói chung nhưng trong một số trường hợp cụ thể nêu trên thì việc đưa người liên quan là người thuê vào tham gia tố tụng là không cần thiết vì nếu họ không tham gia tố tụng thì vẫn có các quy định pháp luật bảo đảm quyền lợi của họ một cách đương nhiên.
KẾT LUẬN  
    Đương sự nói chung cũng như người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan nói riêng là những chủ thể có vai trò quan trọng trong vụ án dân sự. Việc xác định thành phần, tư cách tố tụng của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án một cách chính xác, khách quan. 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, NXB Lao Động. 
- Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, NXB Tư pháp. 
  
Những điểm mới trong luật tạm giữ, tạm giam
Tháng Ba 22, 2019