Nguyên tắc hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự
      Nguyên tắc đại diện của nhân dân tham gia xét xử đã trở thành một nguyên tắc hiến định trong bản Hiến pháp năm 1946. Các bản Hiến pháp sau này của nhà nước ta như Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 đều ghi nhận nguyên tắc này. Chế định Hội thẩm đã thể hiện tư tưởng “lấy dân làm gốc”, đảm bảo nguyên tắc thực hiện quyền lực của nhân dân trong hoạt động xét của Tòa án. Hội thẩm nhân dân bằng sự tham gia vào Hội đồng xét xử thực hiện quyền lực tư pháp và thông qua đó để nhân dân tham gia một cách có hiệu quả vào công tác quản lý Nhà nước và hoạt động của Tòa án. Để hiểu hơn về vấn đề này, tôi xin chọn đề tài: “Nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự và việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc này”.
- Khái quát chung về nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự - Khái quát về Hội thẩm nhân dân
- Muốn đưa ra quyết định đúng đắn, giải quyết các tranh chấp đúng pháp luật, hợp với lẽ công bằng, xử phạt đúng người, đúng tội, hiển nhiên đòi hỏi những người làm công tác xét xử phải có đạo đức trong sáng, có bản lĩnh, có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ vững vàng, có kiến thức và vốn hiểu biết cuộc sống, có kinh nghiệm hoạt động xã hội. Vì thế pháp luật quy định khi xét xử có Hội thẩm tham gia là sự bổ sung cần thiết. Hội thẩm là đại diện của các giới, các ngành, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp, hội thẩm có thể phản ánh một cách khách quan suy nghĩ, tâm tư của quần chúng nhân dân, chứ không phải từ góc độ của một luật gia thuần túy.
- Để trở thành Hội thẩm phải đạt được các tiêu chí sau: là công dân Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có uy tín trong cộng đồng dân cư, có tinh thân dũng cảm và kiên quyết bảo vệ công lý, liêm khiết và trung thực; có kiến thức pháp luật; có hiểu biết xã hội và có sức khỏe đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tiêu chuẩn này được quy định tại Điều 85 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014. Ngoài ra, Hội thẩm sẽ là người được bầu hoặc cử tham gia vào hoạt động xét xử. Thực hiện chế độc bầu Hội thẩm nhân dân đối với Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án nhân dân huyện, xã, thành phố thuộc tỉnh vào tương đương. Đối với Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Tòa án quân sự khu vực sẽ thực hiện chế độ cử (khoản 2 Điều 7 Luật tổ chức Tòa án nhân dân).
 
- Cơ sở lý luận cho việc quy định nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự
- Cơ sở pháp lý
- Nguyên tắc tực hiện chế độ xét xử có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân căn cứ vào một số cơ sở pháp lý sau:
- Theo khoản 1 Điều 103 Hiến pháp 2013: “Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn.” 
- Ngoài ra, Điều 8 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014 quy định: “Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án có Hội thẩm tham gia theo quy định của luật tố tụng, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn.”
- Là một nguyên tắc Hiến định nên nếu việc xét xử của Tòa án mà không có sự tham gia của Hội thẩm thì sẽ không chỉ là vi hiến mà còn vi phạm nghiêm trọng pháp luật tố tụng.
 
 
- Cơ sở thực tiễn
- Việc đảm bảo sự tham gia của nhân dân trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội nói chung và công tác xét xử của Tòa án nói riêng là yêu cầu quan trọng trong một nhà nước tiến bộ. Ở các nước thuộc hệ thống Common law thì có chế định về Bồi thẩm đoàn, còn ở một số nước theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa thì Hội đồng xét xử có thể bao gồm Thẩm phán chuyên nghiệp và Thẩm phán không chuyên nghiệp hoặc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. 
- Bộ luật tố tụng dân sự ghi nhận nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia xuất phát từ thực tiễn để là đảm bảo hoạt động xét xử diễn ra thuận lợi, khách quan trên cơ sở tuân thủ quy định pháp luật. Vì các vụ việc trong tố tụng dân sự là các vụ việc xảy ra trong nhân dân, liên quan đến nhân dân là chủ yếu do đó có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân là để đảm bảo thuận lợi, khách quan cho hoạt động xét xử. Hội thẩm hiểu rõ tình hình, hoàn cảnh, nguyên nhân của các vụ án; ngoài ra họ còn có kiến thức sâu về một số lĩnh vực như quản lý kinh tế, y học, tâm lý xã hội,… Các kiến thức này sẽ bổ sung về mặt thực tiễn cho thẩm phán trong các lĩnh vực chuyên ngành, giúp cho công tác xét xử đúng đắn.
 
 
- Sơ lược lịch sự hình thành và phát triển của nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự
 
    Quá trình hình thành và hoàn thiện nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia trải qua một thời gian khá dài trong lịch sử. Nguyên tắc này đầu tiên được pháp luật Việt Nam ghi nhận và quy định lần đầu tiên tại Điều 65 Hiến pháp năm 1946: “Trong khi xử việc hình thì phải có phụ thẩm nhân dân để hoặc tham gia ý kiến nếu là việc tiểu hình, hoặc cùng quyết định với thẩm phán nếu là việc đại hình”, vai trò và thẩm quyền của Hội thẩm khá mờ nhạt trong bản Hiến pháp 1946. Sau đó, đã có sự cải thiện rõ ràng, đầy đủ, cụ thể ở các bản Hiến pháp về sau. Như vậy, việc xây dựng và áp dụng nguyên tắc này đã đi vào thực tiễn và đang dần được hoàn thiện hơn.
- Nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự - Phân tích nội dung của nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự
- Thứ nhất, theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự Hội thẩm nhân dân chỉ tham gia xét xử sơ thẩm vụ án dân sự trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn mà không nằm trong thành phần giải quyết việc dân sự. Việc dân sự theo Điều 1 BLTTDS 2015 giải thích là các việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động mà Tòa án giải quyết. Với tính chất ít phức tạp, đơn giản và không có sự tranh chấp nên sự tham gia của Hội thẩm nhân dân trong việc dân sự là không cần thiết. Ngay cả đối với vụ án xét xử theo thủ tục rút gọn cũng có tính chất tương tự nên Hội thẩm nhân dân sẽ không phát huy được tác dụng cao trong việc tăng cường tính công khai, minh bạch và đảm bảo sự tham gia của người dân vào việc xét xử của Tòa án. Trong thành phần của Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự, Điều 63 BLTTDS 2015 quy định: “Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân, trừ trường hợp quy định tại Điều 65 của Bộ luật này. Trong trường hợp đặc biệt thì Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân”. Có thể thấy, thành phần Hội thẩm trong một phiên tòa xét xử chiếm 2/3 tổng số người trong hội đồng xét xử với những vụ án thông thường. Trong cả trường hợp đặc biệt thì số lượng Hội thẩm luôn nhiều hơn số lượng Thẩm phán. Có thể xem việc tham gia của Hội thẩm nhân dân vào hoạt động xét xử là một trong những hình thức tham gia của quần chúng nhân dân vào hoạt động quản lý nhà nước. Mặt khác, sự góp mặt của Hội thẩm nhân dân cũng phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Vì họ có đời sống chung trong cộng đồng, trong tập thể lao động, họ là đại diện của các giới, các ngành, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp nên họ hiểu rõ tâm tư nguyện vọng, nắm bắt được dư luận quần chúng nhân dân và có thể phán ánh một cách khách quan cách nhìn nhận về vụ việc. Hội thẩm nhân dân sẽ bổ sung cho Thẩm phán kiến thức xã hội cần thiết trước khi đưa ra phán quyết của mình để có được quyết định vừa hợp pháp vừa hợp tình, được xã hội đồng tình ủng hộ.
- Thứ hai, khi biểu quyết về quyết định giải quyết vụ án dân sự, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán. Trong quá trình xét xử một vụ án, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán và không bị chi phối bởi bất kỳ ai, chỉ tuân theo pháp luật. Quyền hạn của Hội thẩm nhân dân được trải dài trong suốt quá trình xét xử vụ án từ khi nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa, quyền đề nghị Chánh án Tòa án, Thẩm phán ra các quyết định cần thiết thuộc thẩm quyền, tham gia Hội đồng xét xử vụ án dân sự và tiến hành các hoạt động tố tụng, biểu quyết các vấn đề thuộc quyền hạn của Hội đồng xét xử ngang quyền với Thẩm phán. Quy định như vậy rất hợp lý để Hội thẩm nhân dân thực sự phát huy được vai trò là đại diện cho quần chúng nhân dân. Quy định này thể hiện tính dân chủ trong pháp luật tố tụng dân sự của nước ta.
 
- Ý nghĩa của nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự trong tố tụng dân sự
- Thứ nhất, đảm bảo tính khách quan khi giải quyết vụ án. Quy định này đảm bảo được tính công bằng, công tâm, minh bạch trong xét xử vụ án dân sự. Việc tham gia của Hội thẩm nhân dân sẽ thúc đẩy quá trình xét xử được diễn ra thuận lợi và nhanh chóng hơn, đảm bảo được quyền và lợi ích chính đáng của đương sự. Một vụ án khi chỉ có một chủ thể giải quyết, phân định sẽ khó đảm bảo tính khách quan hơn khi có nhiều chủ thể có các quan điểm, góc nhìn khác nhau cùng tham gia đóng góp ý kiến. Hơn nữa, Hội thẩm nhân dân là những người được bầu, cử đã có hiểu biết thực tế xã hội cũng như tâm tư của tầng lớp nhân dân liên quan đến vụ án dân sự. Vì vậy, quy định này nhằm đảm bảo tính khách quan cho quá trình xét xử.
- Thứ hai, đảm bảo tính công bằng. Từ việc nâng cao tính khách quan của vụ án sẽ dẫn đến tính công bằng cũng được cải thiện. Ngoài ra, đây cũng là một biện pháp phần nào ngăn chặn các hành vi gian lận trong tố tụng không chỉ là của các cơ quan xét xử mà còn của đương sự và người có quyền và nghĩa vụ liên quan.
- Thứ ba, thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của nhân dân. Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân nên việc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia không những tạo điều kiện cho mọi người tham gia vào công việc của Nhà nước, bảo đảm thực hiện dân chủ trong tố tụng dân sự mà còn tạo điều kiện cho tòa án giải quyết đúng vụ án dân sự. Ngoài ra, việc tham gia xét xử vụ án dân sự của Hội thẩm nhân dân còn phát huy được tác dụng giáo dục của phiên tòa, nâng cao ý thức pháp luật cho mọi người 
 
 
- Việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự - Thực tiễn việc thực hiện nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự
 
Từ thực tế có thể nhìn nhận rằng các nhà lập pháp cũng như các chính sách của Việt Nam hiện nay ngày càng góp phần vào việc đảm bảo thực thi nguyên tắc xét xử có Hội thẩm nhân dân trong hoạt động tố tụng nói chung và hoạt động tố tụng dân sự nói riêng. Tuy nhiên, để đảm bảo thực hiện được nguyên tắc này là một điều không dễ dàng, việc áp dụng trên thực tế vẫn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, vì vậy chưa thể phát huy được vai trò của Hội thẩm nhân dân.
- Chất lượng hoạt động của các Hội thẩm nhân dân còn chưa cao
- Thứ nhất, trình độ kiến thức về pháp lý của Hội thẩm nhân dân nhiều khi chưa được đảm bảo. Điều này một phần xuất phát từ quy định của pháp luật. Theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014, ngoài việc quy định các tiêu chuẩn như trung thành với Tổ quốc, Hiến pháp, có phẩm chất đạo đức tốt,… thì Hội thẩm phải có “kiến thức pháp luật”. Việc một tiêu chí quy định chung chung, không rõ ràng như vậy dẫn đến quá trình áp dụng gặp rất nhiều khó khăn và nhiều trường hợp hiểu biết của Hội thẩm về pháp luật có nhiều hạn chế. Trong khi đó, pháp luật lại trao cho họ quyền quá lớn “ngang quyền” với Thẩm phán khi thảo luận quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền. Từ đó, vai trò của Hội thẩm sẽ không được thực hiện trên thực tế, thậm chí còn gây ra khó khăn trong quá trình xét xử.
- Thứ hai, từ cách thức lựa chọn Hội thẩm nhân dân hiện nay ở nước ta. Hội thẩm là người đại diện cho các tầng lớp Nhân dân tham gia công tác xét xử của Tòa án. Tuy nhiên thực tế hiện nay, phần lớn những người được Mặt trận Tổ quốc giới thiệu để Hội đồng nhân dân bầu làm Hội thẩm là cán bộ công chức, viên chức của các cơ quan nhà nước hiện đang công tác hoặc đã nghỉ hưu, nên chưa thực sự đại diện đầy đủ cho tính nhân dân của chức danh này. 
- Khối lượng công việc các Hội thẩm phải đảm nhiệm là rất lớn
- Các Thẩm phán có trình độ chuyên môn về pháp luật có thể nói là cao hơn so với Hội thẩm và họ thường chuyên xét xử các vụ án thuộc phạm vi chuyên môn của mình tại các Tòa (Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa hôn nhân và gia đình,…) thì một Hội thẩm lại có thể được tham gia xét xử tất cả các loại án từ dân sự, thương mại, lao động…. Tuy nhiên, với trình độ kiến thức pháp luật tương đối hạn chế, trong thời gian nghiên cứu hồ sơ lại ít hơn Thẩm phán thì Hội thẩm nhân dân khó có thể có đủ điều kiện để đánh giá toàn diện và hiệu quả các hồ sơ để có thể đưa ra được các quyết định đúng đắn về vụ án, nhất là đối với những vụ án có nhiều tình tiết phức tạp. Hội thẩm nhân dân được nghiên cứu hồ sơ tối đa khoảng 12 ngày khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, trong khi đó Thẩm phán được phân công xét xử vụ án có thời gian nghiên cứu hồ sơ dài hơn, có thể là 2 tháng hoặc 4 tháng kể từ ngày thụ lý tùy thuộc vào từng vụ án. Chính thực tế này đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc áp dụng và đảm bảo thực hiện nguyên tắc xét xử có Hội thẩm nhân dân trong hoạt động tố tụng dân sự ở nước ta
2. Giải pháp để đảm bảo thực hiện nguyên tắc này
- Thứ nhất, về tiêu chuẩn kiến thức pháp luật của Hội thẩm. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền nên ban hành các quy định cụ thể về tiêu chuẩn Hội thẩm, đặc biệt là khoản 2 Điều 85 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014. Nên quy định theo hướng người được bầu hoặc cử làm Hội thẩm nhân dân phải có trình độ pháp luật từ trung cấp trở lên hoặc ít nhất phải trải qua lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật tập trung 6 tháng. Vì họ không chỉ tham gia quá trình xét xử để đảm bảo tính dân chủ, mà khi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật, Hội thẩm cũng phải chịu trách nhiệm kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự tùy vào mức độ vi phạm.
- Thứ hai, về lựa chọn nhân sự để bầu hoặc cử làm Hội thẩm. Cần phải lựa chọn những người thật sự có uy tín, kiến thức pháp luật cũng như hiểu biết các lĩnh vực đời sống xã hội bổ sung kiến thức cho Thẩm phán trong quá trình xét xử thì mới đảm bảo đúng ý nghĩa của nguyên tắc này. 
- Thứ ba, về chính sách đãi ngộ. Để đảm bảo công bằng và khuyến khích Hội thẩm tích cực tham gia công tác xét xử, cần áp dụng chế độ đãi ngộ tương xứng với công sức mà họ đã bỏ ra và trách nhiệm mà họ phải gánh chịu, đặc biệt là phải nâng cao mức phụ cấp cho các Hội thẩm nhân dân, phù hợp với trách nhiệm của các Hội thẩm cũng như tình hình kinh tế - xã hội,… Đồng thời, cần quy định rõ trách nhiệm, các chế tài đối với Hội thẩm trong việc thực thi có hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tránh tình trạng quy định chung chung, không cụ thể, làm mất động lực phấn đấu của các Hội thẩm. 
Có như vậy, Hội thẩm nhân dân mới hết lòng trong công tác xem xét hồ sơ, đưa ra các nhận định đúng đắn trong quá trình xét xử, để từ đó thực sự phát huy được vai trò của mình trong việc bổ sung cho Thẩm phán những kiến thức xã hội cần thiết trong quá trình xét xử để có được một phán quyết đúng pháp luật, được xã hội đồng tình ủng hộ. Nhờ đó, việc áp dụng nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia mới thực sự đem lại hiệu quả theo đúng như tinh thần mà các nhà làm luật và nhân dân mong muốn.
KẾT LUẬN:
Chế định Hội thẩm nhân dân là một trong những chế định bắt buộc, có tính quyết định đến các bản án sơ thẩm trong hoạt động tư pháp. Với vai trò quan trọng, việc nâng cao chất lượng, đảm bảo hiệu quả hoạt động của đội ngũ Hội thẩm nhân dân là một yêu cầu cần thiết. Đây là một nhiệm vụ quan trọng của cải cách tư pháp ở nước ta nhằm hướng tới một mục tiêu chung là củng cố hệ thống Tòa án vững mạnh, xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. 
- Luật tổ chức toà án nhân dân năm 2014. 
- Bình luận Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 – Chủ biên: TS Bùi Thị Huyền, NXB Lao động, Hà Nội, 2016. 
- Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng dân sự, Nxb. CAND, Hà Nội, 2011. 
- Đinh Trung Tụng, “Các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự Việt Nam”, Tạp chí TAND, Đặc san chuyên đề về BLTTDS, số 8/2004, tr. 18 - 26. 
- Nguyễn Ngọc Khánh, “Những nguyên tắc tố tụng đặc trưng trong BLTTDS”, Tạp chí kiểm sát, số 1/2005, tr. 19 - 23. 
  
Những điểm mới trong luật tạm giữ, tạm giam
Tháng Ba 22, 2019