Skip to main content

Nhãn hiệu thông thường - nhãn hiệu nổi tiếng theo quy định của pháp luật hiện hành

Ngày 11-1-2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới WTO. Điều này mở ra cơ hội to lớn trong việc phát triển kinh tế đất nước nhưng chúng ta phải đối mặt với nhiều thách thức đặc biệt là tuân thủ các cam kết quốc tế về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Việc bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ trước hết là do nhu cầu của sự phát triển và giao lưu quốc tế, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hoá, khu vực hoá về kinh tế, thương mại diễn ra ngày càng sôi động. Bảo hộ quốc tế quyền sở hữu trí tuệ là một hoạt động có tính tất yếu, khách quan, không ngừng được phát triển, thể hiện trên hai hướng: mở rộng phạm vi các đối tượng được bảo hộ bằng các thiết chế quốc tế và không ngừng chi tiết hoá nội dung bảo hộ. Nhãn hiệu hàng hóa là một tài sản trí tuệ quý giá, có vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động kinh doanh, cạnh tranh và phát triển thị trường của một doanh nghiệp, dù doanh nghiệp đó thực hiện sản xuất hàng hóa hay cung cấp dịch vụ. Theo thời gian, cùng với sự phát triển kinh doanh, uy tín của nhãn hiệu ngày càng được bồi đắp, dẫn đến giá trị của nó ngày càng tăng tiến, nhất là khi nhãn hiệu đã trở thành nhãn hiệu nổi tiếng và được đông đảo người tiêu dùng biết đến. 

 

1. So sánh cơ chế bảo hộ nhãn hiệu thông thường và nhãn hiệu nổi tiếng

1.1. Giống nhau

  • Đều là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các các tổ chức, cá nhân khác nhau được quy định trong Luật sở hữu trí tuệ

  • Đều là đối tượng bảo hộ của quyền sở hữu công nghiệp

1.2. Khác nhau

a) Về khái niệm

Nhãn hiệu thông thường được quy định tại khoản 16 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ: “Nhãn hiệu là dấu hiệu dung để phân biệt  hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau”.

Nhãn hiệu nổi tiếng được quy định tại khoản 20 Điều 4 Luật sở hữu trí  tuệ quy định: “nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dung biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam”.

b) Về căn cứ xác lập quyền

Nhãn hiệu thông thường: Phải tiến hành đăng kí theo quy định tại Điều 6 Luật sở hữu trí tuệ, theo đó quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng kí quy định tại Luật này hoặc công nhận đăng kí quốc tế theoq uy định của điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Nhãn hiệu nổi tiếng: Theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 6 Luật sở hữu trí tuệ thì: “…đối với nhãn hiệu nổi tiếng , quyền sở hữu được xác lập trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký”. Như vậy, nhãn hiệu nổi tiếng được xác lập quyền trên cơ sở thực tiễn sử dụng nhãn hiệu

c) Về thời hạn

Nhãn hiệu thông thường:  theo quy định tại Khoản 6 Điều 93 Luật sở hữu trí tuệ quy định: “Giấy chứng nhận đăng kí nhãn hiệu có hiệu từ ngày cấp đến hết 10 năm kể từ ngày nộp đơn, có thể gia hạn nhiều lần liên tiếp, mỗi lần mười năm”. Như vậy nhãn hiệu thông thường có thời hạn là mười năm và có thể ra hạn nhiều lần liên tiếp, mỗi lần mười năm.

Nhãn hiệu nổi tiếng: thì thời hạn với nhãn hiệu này là đến khi nhãn hiệu này không còn đáp ứng được các tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng tại Điều 75 luật sở hữ trí tuệ. Theo đó các tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng bao gồm 8 tiêu chí: số lượng người tiêu dùng liên quan đã biết đến nhãn hiệu; phạm vi lãnh thổ mà hàng hóa dịch vụ mang nhãn hiệu được lưu hành; doanh số từ việc bán hàng hoặc cung cấp dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc số lượng hàng hóa đã được bán ra, lượng dịch vụ đã được cung cấp; thời gian sử dụng liên tục nhãn hiệu; uy tín rộng rãi của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu; số lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu; số lượng quốc gia công nhận nhãn hiệu là nổi tiếng; giá chuyển nhượng, chuyển giao quyền sử dụng, giá trị góp vốn đầu tư của nhãn hiệu. 

d) Về cơ chế bảo hộ trong việc đăng ký

Nhãn hiệu thông thường: cơ chế bảo hộ trong việc đăng ký đối với nhãn hiệu thông thường thì chủ sở hữu nhãn hiệu chỉ có quyền phản đối việc đăng ký hoặc yêu cầu hủy bỏ giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu đối với các dấu hiệu trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn đối với hàng hóa, dịch vụ.

Nhãn hiệu nổi tiếng: Theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 74 Luật sở hữu trí tuệ có quy định: “Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu được coi là nổi tiếng của người khác đăng ký cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự với hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng hoặc đăng ký cho hàng hóa, dịch vụ không tương tự nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể làm ảnh hưởng đến khả năng phân biệt của nhãn hiệu nổi tiếng hoặc việc đăng ký nhãn hiệu nhằm lợi dụng uy tín của nhãn hiệu nổi tiếng.”

e) Về cơ chế bảo hộ trong việc bảo hộ hành vi xâm phạm

Nhãn hiệu thông thường:  cơ chế bảo hộ trong việc bảo hộ hành vi xâm phạm cho sản phẩm trùng hoặc tương tự không được cho sản phẩm khác loại

Nhãn hiệu nổi tiếng: Các trường hợp được xem là hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu nổi tiếng được quy định ở Điểm d Khoản 1 Điều 129 Luật sở hữu trí tuệ. Theo đó sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng hoặc dấu hiệu dưới dạng dịch nghĩa, phiên âm từ nhãn hiệu nổi tiếng cho hàng hóa, dịch vụ bất kì, kể cả hàng hóa, dịch vụ không trùng, không tương tự và không liên quan tới hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng, nếu sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa hoặc gây ấn tượng sai lệch về mối quan hệ giữa người sử dụng dấu hiệu đó với chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng.

2. Những điểm bất cập trong việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật SHTT Việt Nam

a) Những điểm bất cập 

Ở Việt Nam về cơ bản chúng ta đã xây dựng được một hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ, trong một trừng mực nhất định có thể đáp ứng được phần nào nhu cầu thực tiễn. Tuy nhiên, trong việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo Luật sở hữu trí tuệ vẫn còn có những điểm bất cập sau:

Các quy định về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở nước ta còn thiếu đồng bộ, nhiều quy định còn chồng chéo gây nhiều khó khăn trong việc thực hiện và áp dụng. Đặc biệt là các quy định tại Khoản 4 Điều 20 và Điều 75 Luật SHTT quy định về nhãn hiệu nổi tiếng. Theo đó, Khoản 4 Điều 20 quy định “nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam” còn Điều 75 Luật SHTT lại quy định về các tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng trong đó có quy định tiêu chí: “số lượng các quốc gia công nhận nhãn hiệu là nổi tiếng”, tức là nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam phải là nhãn hiệu được công nhận nổi tiếng trên nhiều quốc gia và đáp ứng được điều kiện phổ biến rộng rãi trên lãnh thổ Việt Nam. Sự không thống nhất về các tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng đã gây ra khó khăn cho các cơ quan chức năng khi chứng minh đây là nhãn hiệu nổi tiếng và việc bảo hộ đối với nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam.Bên cạnh đó, khi xem xét các tiêu chí nêu tại Điều 75 LSHTT, chúng ta  cũng có thể dễ dàng nhận thấy rất nhiều các quy định mang tính chất định lượng, ví dụ như số lượng các quốc gia, số lượng người tiêu dùng...Vấn đề đặt ra ở đây là khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét một nhãn hiệu có phải là nổi tiếng không thì các tổ chức, cá nhân cần phải cung cấp số lượng bao nhiêu quốc gia mà nhãn hiệu đã được đăng ký, 30, 50 hay 70, vấn đề tương tự cũng đặt ra đối với số lượng người tiêu dùng. 

Mặt khác, việc quy định các tiêu chí xác định nhãn hiệu nổi tiếng như tại Điều 75 LSHTT là chưa hoàn toàn triệt để. Các tiêu chí này nên phải thoả mãn được lợi ích của ba phía: nhà nước, doanh nghiệp và khách hàng. Tám tiêu chí được quy định trong luật SHTT của chúng ta hầu như chủ yếu xuất phát từ lợi ích của khách hàng rồi đến doanh nghiệp mà chưa chú trọng đến lợi ích của nhà nước. Ví dụ như, một nhãn hiệu trên thực tế có thể là không nổi tiếng hoặc không thật sự nổi tiếng nhưng, để bảo vệ lợi ích công, nhà nước vẫn có thể cho nhãn hiệu này một cơ chế bảo hộ như một nhãn hiệu nổi tiếng bằng việc quyết định nhãn hiệu đó là nổi tiếng. Điều này là hoàn toàn phù hợp với bản Khuyến nghị chung của WIPO có quy định như sau: “ Quốc gia thành viên có thể quyết định một nhãn hiệu là nổi tiếng, cho dù  nhãn hiệu không nổi tiếng hoặc, nếu quốc gia thành viên áp dụng khoản (c) trên, biết rõ rằng, nhãn hiệu không là nổi tiếng trong bất kì một lượng công chúng hợp lí nào trong quốc gia mình”.

Về cơ chế bảo hộ trong việc bảo hộ hành vi xâm phạm, mọi hành vi sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng cho hàng hoá, dịch vụ bất kỳ, kể cả hàng hoá, dịch vụ không cùng loại, không tương tự với, và không liên quan tới hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng nếu có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá hoặc gây ấn tượng sai lệch về mối quan hệ giữa người sử dụng dấu hiệu đó với chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng đều bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng. Điều này được quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 129 LSHTT. Đặc thù của nhãn hiệu nổi tiếng, xét về mặt lý luận là tính phân biệt của nhãn hiệu rất cao, cao hơn nhiều với nhãn hiệu thông thường khác, phạm vi bảo hộ nhãn hiệu cũng triệt để hơn, và xét về mặt thực tiễn là được người tiêu dùng biết đến rộng rãi. Người tiêu dùng nhận thức được rất rõ nguồn gốc của các nhãn hiệu nổi tiếng, do đó, khả năng xảy ra nhầm lẫn về nguồn gốc giữa hàng hoá hoặc dịch vụ gắn nhãn hiệu nổi tiếng với hàng hoá hoặc dịch vụ gắn nhãn hiệu thông thường là ít xảy ra hơn với cá nhãn hiệu thông thường với nhau. Mục đích của việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng không chỉ là ngăn ngừa hành vi sử dụng gây nhầm lẫn mà còn là ngăn ngừa hành vi sử dụng có thể làm tổn hại đến danh tiếng của nhãn hiệu nổi tiếng. Do đó, quy định của Luật SHTT Việt Nam chưa đáp ứng được mục đích này.

Về căn cứ xác lập quyền thì theo quy định của pháp luật SHTT thì nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ tại Việt Nam, không cần phải qua đăng kí, mà tính nổi tiếng của các nhãn hiệu được xác lập quyền trên cơ sở thực tiễn sử dụng nhãn hiệu. Do vậy, khi xảy ra tranh chấp , thì việc chứng minh nhãn hiệu nổi tiếng của chủ sở hữu gặp nhiều khó khăn và từ đó gây ảnh hưởng tới quyền lợi của chủ sở hữu sẽ bị xâm phạm.

Pháp luật Việt Nam chưa có quy định xác định chính xác như thế nào được coi là hành vi xâm phạm nhãn hiệu nổi tiếng, do đó trên thực tế tình trạng xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu nổi tiếng còn diễn ra tương đối nhiều và cơ quan chức năng gặp nhiều khó khăn trong việc áp dụng pháp luật.

Pháp luật SHTT có quy định thẩm quyền công nhận nhãn hiệu nổi tiếng được trao cho Toà án và Cục Sở hữu trí tuệ nhưng lại thiếu các quy định pháp luật về trình tự, thủ tục công nhận nhãn hiệu nổi tiếng.

b) Một số kiến nghị khắc phục những bất cập

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ đặc biệt là chế định bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nói chung và quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng nói riêng để cho phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đảm bảo tính thống nhất của luật, đồng thời phù hợp với thực tiễn pháp lý và thông lệ quốc tế. Chẳng hạn như sửa đổi Điều 4.20 Luật sở hữu trí tuệ về định nghĩa nhãn hiệu nổi tiếng để phù hợp với Điều 16.3 Hiệp định TRIPS, theo đó, nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được nhiều người biết đến, thoả mãn các tiêu chí quy định tại Điều 75 Luật sở hữu trí tuệ.

Nâng cao nhận thức của công chúng trong việc tự bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng cũng như tôn trọng quyền sở hữu công nghiệp của người khác và loại bỏ dần thói quen sử dụng hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.

Tăng cường vai trò và hiệu quả của các cơ quan có thẩm quyền trong việc bảo hộ nhãn hiệu. Đồng thời nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các cá nhân, tổ chức có liên quan trong lĩnh vực ở hữu trí tuệ.

Tiếp thu tích cực bài học kinh nghiệm từ hệ thống pháp luật các quốc gia phát triển và vận dụng một cách phù hợp vào điều kiện cụ thể của Việt Nam thông qua quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.

KẾT LUẬN

Nhãn hiệu là một yếu tố đặc trưng giữa thị trường thương mại và sở hữu công nghiệp. Nó đã được sử dụng trong một thời gian dài bởi các nhà sản xuất cũng như các thương nhân để xác định nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa hay dịch vụ của họ và phân biệt những hàng hóa dịch vụ đó với các hàng hóa, dịch vụ được sản xuất hay bản bởi các chủ thể khác. Chức năng phân biệt nguồn gốc của hàng hóa hay dịch vu luôn được xem là yếu tố quan trọng nhất của nhãn hiệu. Vì vậy nó luôn đóng vai trò trung tâm và được đề cập đến rất nhiều trong pháp luật về nhãn hiệu của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam cần được hoàn thiện hơn đặc biệt là các chế định về nhãn hiệu và nhãn hiệu nổi tiếng để đảm bảo quyền lợi cũng như nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật này.




Chat Zalo: 0902198579

Copyright © 2019 OPIC LAW All Right Reserved