Phân chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn
  I. Nguyên tắc giải quyết tài sản
- Nguyên tắc áp dụng chế độ tài sản
- Quyền tự thỏa thuận của vợ chồng: Vợ chồng có quyền tự thỏa
thuận với nhau về việc phân chia tài sản khi ly hôn, trường hợp vợ chồng không
tự thỏa thuận được thì có yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Khi đó, Tòa án sẽ
dựa vào chế độ tài sản của vợ chồng để áp dụng phân chia tài sản.
- Phân chia tài sản theo văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản: Nếu vợ chồng có văn bản
thỏa thuận về chế độ tài sản và văn bản này không bị Tòa án tuyên vô hiệu toàn
bộ thì áp dụng các nội dung của văn bản thỏa thuận để chia tài sản của vợ chồng
khi ly hôn;
- Phân chia tài sản theo luật định: Nếu vợ chồng không có văn
bản thỏa thuận về chế độ tài sản hoặc có văn bản thỏa thuận nhưng văn bản thỏa
thuận bị Tòa án tuyên là vô hiệu toàn bộ thì áp dụng chế độ tài sản của vợ
chồng theo luật định để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn;
 Trường hợp áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật
định hoặc vợ chồng có văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản nhưng thỏa thuận
không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng các nguyên tắc sau để phân chia tài sản.
- Nguyên tắc chung
- Thứ nhất, khi giải quyết ly hôn nếu có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận về chế độ tài
sản của vợ chồng bị vô hiệu thì Tòa án xem xét, giải quyết đồng thời với yêu
cầu chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn;
- Thứ hai, Tòa án phải xác định vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ về tài sản với
người thứ ba hay không để đưa người thứ ba vào tham gia tố tụng với tư cách
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trường hợp vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ
về tài sản với người thứ ba mà họ có yêu cầu giải quyết thì Tòa án phải giải
quyết khi chia tài sản chung của vợ chồng. Trường hợp vợ chồng có nghĩa vụ với
người thứ ba mà người thứ ba không yêu cầu giải quyết thì Tòa án hướng dẫn họ
để giải quyết bằng vụ án khác;
- Thứ ba, trường hợp áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để
chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn thì tài sản chung của vợ chồng về nguyên
tắc được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây để xác định tỷ lệ tài
sản mà vợ chồng được chia: Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng; Công sức
đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản
chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp
để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập; Lỗi của mỗi bên trong
vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
- Thứ tư, Giá trị tài sản chung của vợ chồng, tài sản riêng của vợ, chồng
được xác định theo giá thị trường tại thời điểm giải quyết sơ thẩm vụ việc.
- Thứ năm, Tòa án phải xem xét để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con
chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có
khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình
II. Áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để phân chia.
    Trong các trường hợp không có thỏa thuận của vợ chồng khi phân chia tài
sản hoặc có thỏa thuận nhưng bị tòa án tuyên là vô hiệu thì áp dụng chế độ phân
chia theo luật định để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Cụ thể, các nguyên
tắc được trình bày dưới đây.
1. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi
- Thứ nhất, tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu
tố sau:
- Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng” là tình trạng về năng lực pháp
luật, năng lực hành vi, sức khỏe, tài sản, khả năng lao động tạo ra thu nhập
sau khi ly hôn của vợ, chồng cũng như của các thành viên khác trong gia đình mà
vợ chồng có quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản theo quy định của Luật hôn
nhân và gia đình. Bên gặp khó khăn hơn sau khi ly hôn được chia phần tài sản
nhiều hơn so với bên kia hoặc được ưu tiên nhận loại tài sản để bảo đảm duy
trì, ổn định cuộc sống của họ nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế của gia
đình và của vợ, chồng;
- Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển
khối tài sản chung” là sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, công việc gia
đình và lao động của vợ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối
tài sản chung. Người vợ hoặc chồng ở nhà chăm sóc con, gia đình mà không đi làm
được tính là lao động có thu nhập tương đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi
làm. Bên có công sức đóng góp nhiều hơn sẽ được chia nhiều hơn;
- Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề
nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập” là việc chia tài
sản chung của vợ chồng phải bảo đảm cho vợ, chồng đang hoạt động nghề nghiệp
được tiếp tục hành nghề; cho vợ, chồng đang hoạt động sản xuất, kinh doanh được
tiếp tục được sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập và phải thanh toán cho bên
kia phần giá trị tài sản chênh lệch. Việc bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên
trong sản xuất, kinh doanh và hoạt động nghề nghiệp không được ảnh hưởng đến
điều kiện sống tối thiểu của vợ, chồng và con chưa thành niên, con đã thành
niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự;
- Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng” là lỗi của
vợ hoặc chồng vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của vợ chồng dẫn
đến ly hôn.
- Thứ hai, tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được
bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có
giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh
lệch.
- Thứ ba, tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ
trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định. Trường hợp có
sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh
toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp
vợ chồng có thỏa thuận khác.
2. Giải quyết quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba
    Quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu
lực sau khi ly hôn, trừ trường hợp vợ chồng và người thứ ba có thỏa thuận khác.
    Trường hợp có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ tài sản thì áp dụng quy định
về Trách nhiệm liên đới của vợ, chồng với giao dịch do một bên thực hiện; các
nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng theo chế độ tài sản luật định; nghĩa vụ riêng
về tài sản của vợ, chồng theo chế độ tài sản luật định và các quy định của của
pháp luật dân sự để giải quyết.
3. Chia tài sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình
    Trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình, nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình. Việc chia một phần trong khối tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận với gia đình; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
    Trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ chồng
trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần thì khi ly
hôn, phần tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia
áp dụng các nguyên tắc phân chia sản để giải quyết.
4. Chia quyền sử dụng đất
    Quyền sử dụng đất là tài sản riêng của bên nào thì khi ly hôn vẫn thuộc
về bên đó. “Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước
khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn
nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39
và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản
khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng” –
Khoản 1, Điều 43 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Việc chia quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
được thực hiện như sau:
- Đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, nếu cả
hai bên đều có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì được chia theo
thỏa thuận của hai bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải
quyết; Trong trường hợp chỉ một bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử
dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng nhưng phải thanh toán cho bên kia
phần giá trị quyền sử dụng đất mà họ được hưởng;
- Trong trường hợp vợ chồng có quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây
hàng năm, nuôi trồng thủy sản chung với hộ gia đình thì khi ly hôn phần quyền
sử dụng đất của vợ chồng được tách ra và chia theo thỏa thuận, nếu không thỏa
thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết;
- Đối với đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng,
đất ở thì được chia theo quy định về nguyên tắc phân chia tài sản;
- Đối với loại đất khác thì được chia theo quy định của pháp luật về đất
đai.
 Trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà không có quyền sử dụng
đất chung với hộ gia đình thì khi ly hôn quyền lợi của bên không có quyền sử
dụng đất và không tiếp tục sống chung với gia đình được giải quyết theo quy
định về trường hợp “Chia tài sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia
đình” – Điều 61 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
5. Quyền lưu cư của vợ hoặc chồng khi ly hôn
    Nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng đã đưa vào sử dụng chung thì khi
ly hôn vẫn thuộc sở hữu riêng của người đó; trường hợp vợ hoặc chồng có khó
khăn về chỗ ở thì được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày quan hệ
hôn nhân chấm dứt, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
6. Chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh
    Vợ, chồng đang thực hiện hoạt động kinh doanh liên quan đến tài sản
chung có quyền được nhận tài sản đó và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị
tài sản mà họ được hưởng, trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định
khác.
III. Kết luận
    Việc chia tài sản khi ly hôn luôn được các bên xem xét, bất kể là đơn
phương ly hôn hay thuận tình ly hôn. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và các
văn bản hướng dẫn liên quan đã quy định chi tiết về nguyên tăc áp dụng phân
chia tài sản, giúp các bên trong quan hệ hôn nhân gia đình giải quyết được các
vấn đề về tài sản khi ly hôn khi vợ chồng không thỏa thuận được việc phân chia
tài sản, đảm bảo quyền lợi của mỗi bên.
     
Những điểm mới trong luật tạm giữ, tạm giam
Tháng Ba 22, 2019