Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, nhu cầu thành lập các doanh nghiệp vì mục đích kinh doanh phát sinh ngày càng nhiều và khiến doanh nghiệp trở thành một trong những chủ thể chính của hoạt động kinh doanh trên thị trường. Tuy nhiên, không phải tổ chức nào muốn trở thành doanh nghiệp cũng được pháp luật công nhận. Các thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp là một hoạt động tất yếu được pháp luật nước ta đề ra cho các nhà đầu tư khi muốn gia nhập thị trường, để mang lại lợi ích trực tiếp cho chủ thể kinh doanh cũng như góp phần phát triển nền kinh tế đất nước. Đây cũng được coi là một trong những cách thức để nhà nước thực hiện tốt hơn chức năng quản lý và điều chỉnh xã hội của mình. Thành lập doanh nghiệp và đăng ký thành lập doanh nghiệp là quyền của các nhà đầu tư, tuy nhiên, để được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, họ phải thỏa mãn những yêu cầu mà pháp luật đề ra: những điều kiện khi thành lập doanh nghiệp. Vậy, pháp luật hiện hành đã có những quy định như thế nào về vấn đề điều kiện khi đăng ký thành lập doanh nghiệp? Để góp phần giải đáp câu hỏi trên, tôi xin phép được lựa chọn đề tài: “Phân tích quy định của pháp luật về điều kiện kinh doanh khi thành lập doanh nghiệp”
Điều kiện đăng ký thành lập doanh nghiệp là những yếu tố chủ quan và khách quan mà một tổ chức phải đáp ứng được nếu muốn được tiến hành các thủ tục thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về vấn đề này. Theo đó, các điều kiện chủ yếu về các mặt chủ thể, vốn, tên gọi, trụ sở,… mà pháp luật yêu cầu các doanh nghiệp phải có được nếu muốn được công nhận là doanh nghiệp về mặt pháp lý.
    Việc thành lập doanh nghiệp và đăng ký thành lập doanh
nghiệp là sự tự nguyện, là ý chí, mong muốn và là quyền của các nhà đầu tư.
Điều này được pháp luật nước ta công nhân và bảo vệ. Tuy nhiên, không phải mọi
chủ thể đều có đủ tư cách để được phép thành lập doanh nghiệp. Họ phải đáp ứng
được những điều kiện luật định (như đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành
vi) để có thể được phép đăng ký thành lập doanh nghiệp một cách hợp pháp. Thực
tế cho thấy cũng có một số đối tượng có đầy đủ năng lực để thành lập doanh
nghiệp, song vì tính chất đặc biệt về công việc, nghề nghiệp, chức vụ mà pháp
luật đã hạn chế quyền được thành lập doanh nghiệp của họ để tránh tình trạng
tiêu cực không đáng có. Điều kiện về chủ thể được phép thành lập doanh nghiệp
được quy định tại Khoản 2 Điều 18 Luật Doanh nghiệp năm 2014. Theo đó, nếu rơi
vào một trong những trường hợp sau, các nhà đầu tư sẽ bị cấm thành lập doanh
nghiệp:
    Cán bộ, công chức là những cá nhân được quy định tại
Khoản 1 và Khoản 2 Điều 4 Luật Công chức, viên chức năm 2008 và viên chức được
quy định tại Điều 2 Luật Viên chức năm 2010. Theo Điều 20 Luật Cán bộ công chức
năm 2008 quy định về những việc cán bộ, công chức không được làm thì “Ngoài
những việc không được làm quy định tại Điều 18 và Điều 19 của Luật này, cán bộ,
công chức còn không được làm những việc liên quan đến sản xuất, kinh doanh,
công tác nhân sự quy định tại Luật phòng, chống tham nhũng, Luật thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí và những việc khác theo quy định của pháp luật và của cơ
quan có thẩm quyền.” Khoản 6 Điều 19 Luật Viên chức năm 2010 cũng quy định
về những điều viên chức không được làm như sau: “Những việc khác viên chức
không được làm theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí và các quy định khác của pháp luật có liên quan.”
Từ những quy định trên có thể thấy pháp luật nước ta nghiêm cấm các cán bộ,
công chức, viên chức đang làm việc tại các cơ quan Nhà nước cũng như các đơn vị
sự nghiệp công lập, những người đang trực tiếp thực hiện chức năng quản lý của
Nhà nước được phép thành lập doanh nghiệp. Sở dĩ có quy định như vậy là bởi, đây
là những chủ thể đang làm việc và được trả lương từ để đảm bảo nghĩa vụ của
mình là tận tụy, một lòng phụng sự nhân dân chứ không được phép lạm dụng quyền
hành của mình để làm rối loạn hoạt động cũng như sự phát triển của các doanh
nghiệp. Pháp luật cũng mong muốn các chủ thể này có thể toàn tâm toàn ý thực
hiện trách nhiệm của mình, tránh sự nhập nhằng công, tư gây ảnh hưởng xấu tới
nhiều mặt, đặc biệt là quyền lợi của người dân.
    Cũng giống như cán bộ, công chức, viên chức, các chủ thể
này cũng là những cá nhân, tổ chức đang làm việc cho Nhà nước và có trách nhiệm
đảm bảo quyền lợi cho nhân dân. Việc pháp luật hạn chế tuyệt đối quyền được
thành lập doanh nghiệp của những chủ thể này cũng nhằm đảm bảo sự minh bạch của
nguồn thu ngân sách Nhà nước, đảm bảo quyền lợi của các doanh nghiệp, ngăn ngừa
sự lạm dụng chức quyền cũng như các mặt tiêu cực phát sinh. Tuy nhiên, pháp
luật cũng đưa ra một ngoại lệ cho các chủ thể này “trừ những người được cử
làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp”.
Như vậy, trong trường hợp chịu sự ủy thác của nhà nước tại doanh nghiệp, các
chủ thể nêu trên vẫn được phép tham gia vào các hoạt động kinh doanh và quản lý
doanh nghiệp, song với tư cách là người đại diện Nhà nước, chịu sự chi phối,
điều chình của Nhà nước chứ không phải với tư cách cá nhân đi thành lập doanh
nghiệp nên vẫn đảm bảo tính thông suốt của các quy định cũng như ý chí của Nhà
nước nói trên.
    Tư cách chủ thể là khả năng của một người hoặc một tổ
chức được hưởng các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, từ đó có thể
sử dụng tư cách đó để tham gia các quan hệ pháp luật. Một cá nhân, tổ chức có
tư cách chủ thể là khi có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi
dân sự. Năng lực pháp luật đóng vao trò làm tiền đề pháp lý để một cá nhân, tổ
chức có quyền và nghĩa vụ được pháp luật bảo hộ thì năng lực hành vi dân sự là
khả năng của các chủ thể tự mình sử dụng hành vi của mình để được hưởng các
quyền, nghĩa vụ đó. Ngoài ra, năng lực chủ thể còn bao gồm cả việc chủ thể đó
có khả năng tự chịu trách nhiệm khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ dân sự. Người
chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ năng lực hành vi dân sự (do đặc
tính về thể chất, nhận thức,…); người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là
những người bị nghiện các chất kích thích dẫn đến năng lực hành vi dân sự không
còn được đầy đủ như trước; người bị mất năng lực hành vi dân sự là người mắc
các bệnh tâm thần dẫn đến mất đi hoàn toàn khả năng làm chủ và điều khiển hành
vi; tổ chức không có tư cách pháp nhân là tổ chức không có tài sản riêng và
không thể nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật. Tất cả những chủ
thể nêu trên đều không có đủ năng lực để có thể chịu trách nhiệm khi có hành vi
vi phạm nghĩa vụ dân sự, vì vậy, họ không thể duy trì được hoạt động lâu dài
của một doanh nghiệp. Việc pháp luật cấm họ có quyền thành lập doanh nghiệp là
hoàn toàn hợp lý, tránh tình trạng “sớm nở tối tàn” của các doanh nghiệp cũng
như tránh sự lợi dụng các chủ thể trên thành lập doanh nghiệp để trục lợi.
    Khoản 2 Điều 18 Luật Doanh nghiệp năm 2014 cũng quy định:
“Trường hợp Cơ quan đăng ký kinh doanh có yêu cầu, người đăng ký thành lập
doanh nghiệp phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh.”
Quy định này được đặt ra để đảm bảo rằng các đối tượng bị pháp luật cấm sẽ
không thể thực hiện được các thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp. Tuy nhiên,
các đối tượng chỉ phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh
trong trường hợp được các Cơ quan này yêu cầu.
    Vốn của doanh nghiệp là cơ sở vật chất, tài chính quan
trọng nhất, là công cụ để chủ doanh nghiệp triển khai các hoạt động kinh doanh
cụ thể của doanh nghiệp. Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự
do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ,
công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác.
Khi thành lập doanh nghiệp các chủ thể cần lưu ý quy định
của pháp luật về vốn:
    Đối với ngành nghề kinh doanh pháp luật có quy định về
mức vốn pháp định thì khi thành lập doanh nghiệp trong lĩnh vực đó, các chủ thể
phải đảm bảo được yêu cầu về vốn pháp định. Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu
phải có khi thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật (theo điểm 7
điều 4 Luật doanh nghiệp 2005 quy định: “Vốn pháp định là số vốn tối thiểu
phải có theo quy định của pháp luật để thành lập doanh nghiệp”). Theo pháp
luật hiện hành, cụ thể là theo Luật doanh nghiệp 2014 đã bỏ việc xác định vốn
pháp định với mục đích hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh tất cả các ngành
nghề mà pháp luật không cấm theo quy định tại Hiến pháp 2013. Tuy nhiên, đối
với từng ngành nghề cụ thể vẫn quy định rõ về vốn pháp định để thành lập doanh
nghiệp. Vốn pháp định ở Việt Nam được xác định theo từng ngành, nghề kinh doanh
cụ thể, không áp dụng cho từng loại hình doanh nghiệp. Các ngành nghề cụ thể
này được quy định rải rác trong các Nghị định của Chính phủ, ví dụ như vốn pháp
định được áp dụng với các tổ chức tín dụng, trong đó có ngân hàng thương mại cổ
phần yêu cầu mức vốn pháp định là 1000 tỷ đồng; chi nhánh ngân hàng nước ngoài
yêu cầu mức vốn pháp định là 15 triệu USD theo Nghị định số 141/2006/ND-CP ngày
22/11/2006 hay Kinh doanh bất động sản là 6 tỷ đồng theo Điều 3 Nghị định
153/2007/ND-CP ngày 15/10/2007,….
    Việc quy định mức vốn vốn pháp định cụ thể ở Việt Nam chủ
yếu được xác định thông qua các văn bản dưới luật do cơ quan hành pháp ban
hành. Trong khi hầu hết các nước trên thế giới đang có xu hướng giảm bớt vai
trò và ảnh hưởng của vốn pháp định đối với doanh nghiệp thì ở Việt Nam vốn pháp
định lại đang có chiều hướng gia tăng trở lại trong nhiều ngành nghề.
    Đối với những ngành nghề pháp luật không có quy định về
mức vốn pháp định thì khi thành lập doanh nghiệp các chủ thể chỉ cần đảm bảo
vốn điều lệ của doanh nghiệp khi đăng kí thành lập. Khoản 29 Điều 4  Luật
doanh nghiệp 2014  quy định: “Vốn điều
lệ là tổng giá trị tài sản do các thành viên đã góp hoặc cam kết góp khi thành
lập công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh; là tổng giá trị mệnh giá cổ
phần đã bán hoặc đã được đăng ký mua khi thành lập doanh nghiệp đối với công ty
cổ phần.”
    Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do
chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công
nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty do thành
viên góp để tạo thành vốn của công ty. Pháp luật không quy định mức vốn điều lệ
tối thiểu/ tối đa khi thành lập công ty. Tuy nhiên, nếu đăng ký vốn điều lệ quá
thấp thì sẽ không thể hiện được tiềm lực tài chính của công ty, nhưng nếu đăng
ký vốn điều lệ quá cao so với số vốn thực có sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc thực
hiện sổ sách kế toán, thực hiện nghĩa vụ tài chính…
    Góp vốn là việc đưa tài sản vào công ty để trở thành chủ
sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung của công ty. Tổ chức, cá nhân được mua cổ phần
của công ty cổ phần, góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh
theo quy định của Luật doanh nghiệp, trừ những trường hợp sau đây:
Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt
Nam sử dụng tài sản Nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ
quan, đơn vị mình;
Các đối tượng không được góp vốn vào doanh nghiệp theo
quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.
Là sự cam kết mức trách nhiệm bằng vật chất của các thành
viên với khách hàng, đối tác, cũng như đối với doanh nghiệp;
Là vốn đầu tư cho hoạt động của doanh nghiệp;
Là cơ sở để phân chia lợi nhuận cũng như rủi ro trong
kinh doanh đối với các thành viên góp vốn.
Hồ sơ đăng ký doanh nghiệp là một trong những bước cơ bản
quan trọng nhất về mặt thủ tục khi một Nhà đầu tư muốn Nhà nước công nhận mình
là một doanh nghiệp hợp pháp. Đáp ứng yêu cầu này, Luật Doanh nghiệp năm 2014
đã có những quy định cụ thể về hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp để tạo điều
kiện cho các Nhà đầu tư hoàn thành và dễ dàng hơn khi muốn thành lập doanh
nghiệp. Theo đó, tại các Điều 20, 21, 22, 23, Luật Doanh nghiệp 2014 lần lượt
quy định cụ thể, rõ ràng về những yêu cầu đối với hồ sơ đăng ký thành lập các
loại hình doanh nghiệp như doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần. Nhìn chung, để đăng ký thành lập doanh
nghiệp, Nhà đầu tư cần phải chuẩn bị một bộ hồ sơ có các thành phần chủ yếu
sau:
Thứ nhất, giấy đề nghị  đăng ký kinh doanh. Nội dung
của giấy này cũng được pháp luật doanh nghiệp Việt Nam năm 2014 quy định cụ thể
tại Điều 24, cụ thể giấu đề nghị đăng ký thành lập doanh nghiệp cần có: Tên
doanh nghiệp; Địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp; số điện thoại, số fax, thư
điện tử (nếu có); Ngành, nghề kinh doanh; Vốn điều lệ; vốn đầu tư của chủ doanh
nghiệp tư nhân; Các loại cổ phần, mệnh giá mỗi loại cổ phần và tổng số cổ phần
được quyền chào bán của từng loại cổ phần đối với công ty cổ phần; Thông tin
đăng ký thuế; Số lượng lao động; Họ, tên, chữ ký, địa chỉ thường trú, quốc
tịch, số Thẻ căn cước công dân, Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực
cá nhân hợp pháp khác của chủ doanh nghiệp tư nhân và thành viên hợp danh; Họ,
tên, chữ ký, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Thẻ căn cước công dân, Giấy
chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của người
đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và
công ty cổ phần.
Thứ hai, điều lệ công ty được quy định tại Điều 25 Luật
Doanh nghiệp năm 2014. Điều lệ là bản cam kết của tất cả các thành viên công ty
về mục đích thành lập, tổ chức và quản lý hoạt động của doanh nghiệp. Điều lệ
doanh nghiệp phải được xây dựng dựa trên tinh thần tự nguyện của các thành viên
sáng lập doanh nghiệp và không được trái với quy định của pháp luật về các vấn
đề có liên quan.
Thứ ba, danh sách các thành viên của doanh nghiệp đối với
công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc danh sách cổ đông sáng lập
và cổ đông là Nhà đầu tư nước ngoài đối với công ty cổ phần theo mẫu do Bộ kế
hoạch và đầu tư ban hành.
Thứ tư, bản sao hợp lệ các giấy tờ có liên quan nhằm xác
định nhân thân của các thành viên sáng lập doanh nghiệp; Quyết định thành lập
doanh nghiệp; Giấy chứng nhận đăng ký thành lập doanh nghiệp hoặc các tài liệu
tương đương khác của tổ chức và văn bản ủy quyền; Giấy tờ xác minh nhân thân
của các Nhà đầu tư thành lập doanh nghiệp là người nước ngoài; Giấy chứng nhận
đăng ký đầu tư đối với Nhà đầu tư nước ngoài theo quy định của Luật đầu tư.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 7 Luật Doanh nghiệp năm
2014 thì doanh nghiệp có quyền “tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà
luật không cấm”, tức là pháp luật sẽ không thừa nhận quyền kinh doanh của
doanh nghiệp nếu ngành nghề mà doanh nghiệp này lựa chọn kinh doanh lại thuộc
một trong các ngành nghề được quy định tại Khoản 1 Điều 6 Luật Đầu tư năm 2014
như sau: “Cấm các hoạt động đầu tư kinh doanh sau đây:
a) Kinh doanh các chất ma túy theo quy định tại Phụ
lục 1 của Luật này;
b) Kinh doanh các loại hóa chất, khoáng vật quy định
tại Phụ lục 2 của Luật này;
c) Kinh doanh mẫu vật các loại thực vật, động vật
hoang dã theo quy định tại Phụ lục 1 của Công ước về buôn bán quốc tế các loài
thực vật, động vật hoang dã nguy cấp; mẫu vật các loại động vật, thực vật hoang
dã nguy cấp, quý hiếm Nhóm I có nguồn gốc từ tự nhiên theo quy định tại Phụ lục
3 của Luật này;
d) Kinh doanh mại dâm;
đ) Mua, bán người, mô, bộ phận cơ thể người;
e) Hoạt động kinh doanh liên quan đến sinh sản vô tính
trên người.”
Việc đặt tên doanh nghiệp cũng là một trong những vấn đề
được pháp luật doanh nghiệp nước ta đặc biệt quan tâm, là một trong những điều
kiện pháp lý mà pháp luật đặt ra cho các chủ thể nếu muốn trở thành doanh
nghiệp. Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định về tên doanh nghiệp cụ thể tại các
Điều 38, 39 40, 41, 42 như sau: 
Tên doanh nghiệp phải được viết bằng các chữ cái trong
bảng chữ cái tiếng Việt, các chữ F, J, Z, W, chữ số và ký hiệu.
Tên loại hình doanh nghiệp được viết là “công ty trách
nhiệm hữu hạn” hoặc “công ty TNHH” đối với công ty trách nhiệm hữu hạn; được
viết là “công ty cổ phần” hoặc “công ty CP” đối với công ty cổ phần; được viết
là “công ty hợp danh” hoặc “công ty HD” đối với công ty hợp danh; được viết là
“doanh nghiệp tư nhân”, “DNTN” hoặc “doanh nghiệp TN” đối với doanh nghiệp tư
nhân;
Tên doanh nghiệp phải được gắn tại trụ sở chính, chi nhánh,
văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp. Tên doanh nghiệp phải
được in hoặc viết trên các giấy tờ giao dịch, hồ sơ tài liệu và ấn phẩm do
doanh nghiệp phát hành.
Không được đặt tên trùng hoặc tên gây nhầm lẫn với tên
của doanh nghiệp đã đăng ký. 
Không sử dụng tên cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân
dân, tên của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị
xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp để làm toàn
bộ hoặc một phần tên riêng của doanh nghiệp, trừ trường hợp có sự chấp thuận
của cơ quan, đơn vị hoặc tổ chức đó.
Không sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch
sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp chỉ được sử dụng ngành nghề
kinh doanh, hình thức đầu tư để cấu thành tên riêng của doanh nghiệp nếu doanh
nghiệp có đăng ký ngành, nghề đó thực hiện đầu tư theo hình thức đó. Pháp luật
mong muốn tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh ngay từ cái tên của những
doanh nghiệp hoạt động trong môi trường đó.
Không những vậy, ngoài những yêu cầu trong việc đặt tên
doanh nghiệp như trên, chủ thể thành lập doanh nghiệp còn phải tuân thủ nghiêm
ngặt quy định về các trường hợp cấm đặt tên doanh nghiệp tại Điều 39 Luật Doanh
nghiệp năm 2014. Có thể thấy pháp luật nước ta rất ý thức về tầm quan trọng và
ý nghĩa của việc đặt tên doanh nghiệp. 
    Doanh nghiệp là những chủ thể cơ bản và quan
trọng nhất của thị trường kinh doanh. Do đó, việc pháp luật về doanh nghiệp
hiện hành ở nước ta có những quy định cụ thể, rõ ràng như trên về điều kiện để
một tổ chức được phép đăng ký thành lập doanh nghiệp là vô cùng thiết thực, cần
thiết và hiệu quả. Từ đó cho thấy sự quan tâm, sát sao của các nhà làm luật đối
với doanh nghiệp nói riêng cũng như sự phát triển của nền kinh tế nước nhà nói
chung, làm một minh chứng cụ thể cho mối quan hệ khăng khít không thể tách rời
giữa pháp luật và kinh tế, pháp luật và đời sống.  
 
  
 Copyright © 2019 OPIC LAW All Right Reserved
Những điểm mới trong luật tạm giữ, tạm giam
Tháng Ba 22, 2019