Skip to main content

Phân tích quy định của pháp luật về điều kiện kinh doanh khi thành lập doanh nghiệp

Mở đầu

    Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, nhu cầu thành lập các doanh nghiệp vì mục đích kinh doanh phát sinh ngày càng nhiều và khiến doanh nghiệp trở thành một trong những chủ thể chính của hoạt động kinh doanh trên thị trường. Tuy nhiên, không phải tổ chức nào muốn trở thành doanh nghiệp cũng được pháp luật công nhận. Các thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp là một hoạt động tất yếu được pháp luật nước ta đề ra cho các nhà đầu tư khi muốn gia nhập thị trường, để mang lại lợi ích trực tiếp cho chủ thể kinh doanh cũng như góp phần phát triển nền kinh tế đất nước. Đây cũng được coi là một trong những cách thức để nhà nước thực hiện tốt hơn chức năng quản lý và điều chỉnh xã hội của mình. Thành lập doanh nghiệp và đăng ký thành lập doanh nghiệp là quyền của các nhà đầu tư, tuy nhiên, để được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, họ phải thỏa mãn những yêu cầu mà pháp luật đề ra: những điều kiện khi thành lập doanh nghiệp. Vậy, pháp luật hiện hành đã có những quy định như thế nào về vấn đề điều kiện khi đăng ký thành lập doanh nghiệp? Để góp phần giải đáp câu hỏi trên, tôi xin phép được lựa chọn đề tài: “Phân tích quy định của pháp luật về điều kiện kinh doanh khi thành lập doanh nghiệp”

I. Khái quát chung về doanh nghiệp và thành lập doanh nghiệp.

  1. Doanh nghiệp
    • Định nghĩa doanh nghiệp đã được pháp luật nước ta làm rõ tại Khoản 7 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014 như sau: “Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh.”
    • Theo đó, doanh nghiệp được biết đến là một tổ chức và tổ chức đó muốn trở thành doanh nghiệp phải đáp ứng được tất cả các điều kiện sau: thứ nhất, có tên riêng; thứ hai, có tài sản để duy trì hoạt động của doanh nghiệp; thứ ba, có trụ sở giao dịch; thứ tư, mục đích hoạt động là để kinh doanh, tức là liên tục thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình, đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi (theo Khoản 16 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014); thứ năm, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật. 
    • Tất cả các điều kiện trên đều vô cùng quan trọng và có ý nghĩa quyết định đối với việc xác lập tư cách một doanh nghiệp. Trong số những điều kiện trên, điều kiện cuối cùng là điều kiện mang tính quá trình với sự tham gia của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thể hiện tính chất pháp lý của một doanh nghiệp. Để có thể đăng ký thành lập doanh nghiệp và được sự công nhận của nhà nước, bản thân tổ chức muốn trở thành doanh nghiệp cũng phải đáp ứng được các điều kiện để có thể được đăng ký thành lập doanh nghiệp.
  2. Thành lập doanh nghiệp
    1. Định nghĩa thành lập doanh nghiệp
      • Thành lập doanh nghiệp là một khái niệm đa dạng, có thể được soi chiếu và nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. 
      • Dưới góc độ kinh tế, thành lập doanh nghiệp là hoạt động khởi tạo doanh nghiệp của chủ đầu tư bao gồm các hoạt động đầu tiên tạo cơ sở vật chất cần thiết để doanh nghiệp có thể tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình và có tiền để pháp lý vững chắc để khai sinh ra doanh nghiệp của mình.
      • Dưới góc độ quản lý nhà nước, việc các tổ chức muốn trở thành doanh nghiệp phải tiến hành các thủ tục đăng ký theo quy định của pháp luật là một trong những phương thức để các cơ quan nhà nước thực hiện hoạt động giám sát cũng như dễ dàng hơn trong việc tạo điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp phát triển.
      • Dưới góc độ pháp lý, đăng ký thành lập doanh nghiệp được hiểu là những thủ tục bắt buộc mà pháp luật về doanh nghiệp quy định mà các tổ chức phải tuân theo nếu muốn trở thành doanh nghiệp. Thông qua những thủ tục bắt buộc mang tính pháp lý này, các tổ chức sẽ hoạt động kinh doanh dưới tư cách doanh nghiệp và có được năng lực pháp luật mà chỉ doanh nghiệp mới có, tức là đã được pháp luật thừa nhận sự tồn tại và hoạt động thông qua việc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ phát giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho tổ chức đó. Các chủ thể khi muốn thành lập doanh nghiệp có trách nhiệm phải khai báo rõ ràng, chính xác các vấn đề liên quan để thủ tục thành lập được tiến hành thông suốt, hợp pháp, có hiệu quả.
      • Đăng ký thành lập doanh nghiệp là tổng hợp các thủ tục do pháp luật quy định bắt buộc các tổ chức muốn thành lập doanh nghiệp phải thực hiện để tiến hành “khai sinh ra doanh nghiệp mới”_một chủ thể của hoạt động kinh doanh trên thị trường.
    2. Ý nghĩa của thành lập doanh nghiệp
      • Về phía các cơ quan nhà nước, việc đăng ký thành lập doanh nghiệp giúp nhà nước dễ dàng, thuận tiện hơn trong việc điều chỉnh, quản lý các chủ thể chính của hoạt động kinh doanh trên thị trường. Nhờ có các thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước sẽ nắm được rõ rành các thông số trên thị trường, nắm bắt được bước tiến của thị trường, các nhà lãnh đạo đất nước sẽ tìm ra được những đường hướng mới, chính sách phù hợp, tiến bộ hơn với nền kinh tế thị trường, giúp các doanh nghiệp nói riêng cũng như nền kinh tế nói chung ngày một phát triển theo hướng tích cực.
      • Về phía các tổ chức đăng ký thành lập doanh nghiệp, sau khi được cấp giấy chứng nhận thành lập doanh nghiệp, các doanh nghiệp này sẽ được sự bảo hộ của pháp luật nên sẽ thuận lợi hơn trong việc tiến hành các hoạt động kinh doanh trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, việc đăng ký thành lập doanh nghiệp cũng là cơ sở pháp lý vững chắc để các doanh nghiệp được phép yêu cầu sự hỗ trợ, bào vệ từ phía các cơ quan nhà nước trong quá trình hoạt động kinh doanh trên thị trường.
    3. Điều kiện đăng ký thành lập doanh nghiệp

    Điều kiện đăng ký thành lập doanh nghiệp là những yếu tố chủ quan và khách quan mà một tổ chức phải đáp ứng được nếu muốn được tiến hành các thủ tục thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về vấn đề này. Theo đó, các điều kiện chủ yếu về các mặt chủ thể, vốn, tên gọi, trụ sở,… mà pháp luật yêu cầu các doanh nghiệp phải có được nếu muốn được công nhận là doanh nghiệp về mặt pháp lý.

II. Quy định của pháp luật về điều kiện kinh doanh khi thành lập doanh nghiệp.

  1. Điều kiện về chủ thể.

        Việc thành lập doanh nghiệp và đăng ký thành lập doanh nghiệp là sự tự nguyện, là ý chí, mong muốn và là quyền của các nhà đầu tư. Điều này được pháp luật nước ta công nhân và bảo vệ. Tuy nhiên, không phải mọi chủ thể đều có đủ tư cách để được phép thành lập doanh nghiệp. Họ phải đáp ứng được những điều kiện luật định (như đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi) để có thể được phép đăng ký thành lập doanh nghiệp một cách hợp pháp. Thực tế cho thấy cũng có một số đối tượng có đầy đủ năng lực để thành lập doanh nghiệp, song vì tính chất đặc biệt về công việc, nghề nghiệp, chức vụ mà pháp luật đã hạn chế quyền được thành lập doanh nghiệp của họ để tránh tình trạng tiêu cực không đáng có. Điều kiện về chủ thể được phép thành lập doanh nghiệp được quy định tại Khoản 2 Điều 18 Luật Doanh nghiệp năm 2014. Theo đó, nếu rơi vào một trong những trường hợp sau, các nhà đầu tư sẽ bị cấm thành lập doanh nghiệp:

  2. Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình:
        Theo Khoản 3 Điều 14 Nghị định 102/2010/ND-CP, thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình là việc sử dụng thu nhập dưới mọi hình thức có được từ hoạt động kinh doanh, từ góp vốn, mua cổ phần vào ít nhất một trong các mục đích sau: Chia dưới mọi hình thức cho một số hoặc tất cả các cán bộ, nhân viên cơ quan, đơn vị; Bổ sung vào ngân sách hoạt động của cơ quan, đơn vị trái với quy định của pháp luật về ngân sách Nhà nước. Như vậy, các cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân hiện đang sử dụng tài sản của Nhà nước để đăng ký thành lập doanh nghiệp vì mục đích với những hành động trên sẽ bị nghiêm cấm thành lập doanh nghiệp. Việc pháp luật quy định chủ thể này là một trong những chủ thể bị cấm thành lập doanh nghiệp nhằm tạo một môi trường kinh doanh công bằng, minh bạch cho các chủ thể khác không bị hiện tượng lợi dụng chức vụ cũng như biển thủ ngân sách Nhà nước gây cản trở sự phát triển. Bên cạnh đó, việc cấm các chủ thể này thành lập doanh nghiệp cũng là một cách Nhà nước thực hiện chính sách minh bạch các nguồn ngân sách Nhà nước, không muốn đem đến một nguồn thu ngân sách Nhà nước bất chính, đảm bảo quyền lợi cho người dân kinh doanh.
  3. Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức:

        Cán bộ, công chức là những cá nhân được quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 4 Luật Công chức, viên chức năm 2008 và viên chức được quy định tại Điều 2 Luật Viên chức năm 2010. Theo Điều 20 Luật Cán bộ công chức năm 2008 quy định về những việc cán bộ, công chức không được làm thì “Ngoài những việc không được làm quy định tại Điều 18 và Điều 19 của Luật này, cán bộ, công chức còn không được làm những việc liên quan đến sản xuất, kinh doanh, công tác nhân sự quy định tại Luật phòng, chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và những việc khác theo quy định của pháp luật và của cơ quan có thẩm quyền.” Khoản 6 Điều 19 Luật Viên chức năm 2010 cũng quy định về những điều viên chức không được làm như sau: “Những việc khác viên chức không được làm theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và các quy định khác của pháp luật có liên quan.” Từ những quy định trên có thể thấy pháp luật nước ta nghiêm cấm các cán bộ, công chức, viên chức đang làm việc tại các cơ quan Nhà nước cũng như các đơn vị sự nghiệp công lập, những người đang trực tiếp thực hiện chức năng quản lý của Nhà nước được phép thành lập doanh nghiệp. Sở dĩ có quy định như vậy là bởi, đây là những chủ thể đang làm việc và được trả lương từ để đảm bảo nghĩa vụ của mình là tận tụy, một lòng phụng sự nhân dân chứ không được phép lạm dụng quyền hành của mình để làm rối loạn hoạt động cũng như sự phát triển của các doanh nghiệp. Pháp luật cũng mong muốn các chủ thể này có thể toàn tâm toàn ý thực hiện trách nhiệm của mình, tránh sự nhập nhằng công, tư gây ảnh hưởng xấu tới nhiều mặt, đặc biệt là quyền lợi của người dân.

  4. Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam, trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp;  Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong doanh nghiệp nhà nước, trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác

        Cũng giống như cán bộ, công chức, viên chức, các chủ thể này cũng là những cá nhân, tổ chức đang làm việc cho Nhà nước và có trách nhiệm đảm bảo quyền lợi cho nhân dân. Việc pháp luật hạn chế tuyệt đối quyền được thành lập doanh nghiệp của những chủ thể này cũng nhằm đảm bảo sự minh bạch của nguồn thu ngân sách Nhà nước, đảm bảo quyền lợi của các doanh nghiệp, ngăn ngừa sự lạm dụng chức quyền cũng như các mặt tiêu cực phát sinh. Tuy nhiên, pháp luật cũng đưa ra một ngoại lệ cho các chủ thể này “trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp”. Như vậy, trong trường hợp chịu sự ủy thác của nhà nước tại doanh nghiệp, các chủ thể nêu trên vẫn được phép tham gia vào các hoạt động kinh doanh và quản lý doanh nghiệp, song với tư cách là người đại diện Nhà nước, chịu sự chi phối, điều chình của Nhà nước chứ không phải với tư cách cá nhân đi thành lập doanh nghiệp nên vẫn đảm bảo tính thông suốt của các quy định cũng như ý chí của Nhà nước nói trên.

  5. Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự; tổ chức không có tư cách pháp nhân: 

        Tư cách chủ thể là khả năng của một người hoặc một tổ chức được hưởng các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, từ đó có thể sử dụng tư cách đó để tham gia các quan hệ pháp luật. Một cá nhân, tổ chức có tư cách chủ thể là khi có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Năng lực pháp luật đóng vao trò làm tiền đề pháp lý để một cá nhân, tổ chức có quyền và nghĩa vụ được pháp luật bảo hộ thì năng lực hành vi dân sự là khả năng của các chủ thể tự mình sử dụng hành vi của mình để được hưởng các quyền, nghĩa vụ đó. Ngoài ra, năng lực chủ thể còn bao gồm cả việc chủ thể đó có khả năng tự chịu trách nhiệm khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ dân sự. Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ năng lực hành vi dân sự (do đặc tính về thể chất, nhận thức,…); người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là những người bị nghiện các chất kích thích dẫn đến năng lực hành vi dân sự không còn được đầy đủ như trước; người bị mất năng lực hành vi dân sự là người mắc các bệnh tâm thần dẫn đến mất đi hoàn toàn khả năng làm chủ và điều khiển hành vi; tổ chức không có tư cách pháp nhân là tổ chức không có tài sản riêng và không thể nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật. Tất cả những chủ thể nêu trên đều không có đủ năng lực để có thể chịu trách nhiệm khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ dân sự, vì vậy, họ không thể duy trì được hoạt động lâu dài của một doanh nghiệp. Việc pháp luật cấm họ có quyền thành lập doanh nghiệp là hoàn toàn hợp lý, tránh tình trạng “sớm nở tối tàn” của các doanh nghiệp cũng như tránh sự lợi dụng các chủ thể trên thành lập doanh nghiệp để trục lợi.

  6. Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chấp hành hình phạt tù, quyết định xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc đang bị cấm hành nghề kinh doanh, đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định, liên quan đến kinh doanh theo quyết định của Tòa án; các trường hợp khác theo quy định của pháp luật về phá sản, phòng, chống tham nhũng.
        Đây là những chủ thể do có hành vi vi phạm pháp luật nên đã bị quyền lực Nhà nước tước đi hoặc làm hạn chế các quyền dân sự của mình, tương tự với người bị hạn chế hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự, họ cũng không có đủ điều kiện để duy trì sự tồn tại và hoạt động lâu dài của các doanh nghiệp. Khi có tranh chấp hay nợ nần phát sinh, họ sẽ không thể đứng ra giải quyết do đang bị áp dụng hình phạt. Đối với người bị Tòa án tuyên cấm hành nghề kinh doanh, đây là hình phạt đối với người đã từng hành nghề kinh doanh, từng đảm nhiệm chức vụ hoặc làm các công việc liên quan đến kinh doanh nhưng đã có những hành vi vi phạm pháp luật về kinh doanh, nếu để họ tiếp tục được phép thành lập doanh nghiệp và hoạt động kinh doanh thì sẽ trở thành mối nguy hại lớn. Về các trường hợp khác theo quy định của pháp luật về phá sản, phòng, chống tham nhũng, pháp luật nghiêm cấm những đối tượng này vì muốn bảo vệ sự tồn tại và hoạt động của các doanh nghiệp.

        Khoản 2 Điều 18 Luật Doanh nghiệp năm 2014 cũng quy định: “Trường hợp Cơ quan đăng ký kinh doanh có yêu cầu, người đăng ký thành lập doanh nghiệp phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh.” Quy định này được đặt ra để đảm bảo rằng các đối tượng bị pháp luật cấm sẽ không thể thực hiện được các thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp. Tuy nhiên, các đối tượng chỉ phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh trong trường hợp được các Cơ quan này yêu cầu.

        So với Luật Doanh nghiệp năm 2005, quy định về điều kiện chủ thể được thành lập doanh nghiệp đã được đưa ra một cách rõ ràng, cụ thể hơn, thể hiện sự sát sao hơn của pháp luật Việt Nam đối với vấn đề này. Điều này giúp nâng cao chất lượng doanh nghiệp kinh doanh ngay từ khâu thành lập, giúp các Nhà đầu tư nhận thức được tư cách pháp luật của mình để tiến hành thành lập doanh nghiệp một cách đúng pháp luật.
  7. Điều kiện về vốn

        Vốn của doanh nghiệp là cơ sở vật chất, tài chính quan trọng nhất, là công cụ để chủ doanh nghiệp triển khai các hoạt động kinh doanh cụ thể của doanh nghiệp. Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác.

    Khi thành lập doanh nghiệp các chủ thể cần lưu ý quy định của pháp luật về vốn:

        Đối với ngành nghề kinh doanh pháp luật có quy định về mức vốn pháp định thì khi thành lập doanh nghiệp trong lĩnh vực đó, các chủ thể phải đảm bảo được yêu cầu về vốn pháp định. Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có khi thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật (theo điểm 7 điều 4 Luật doanh nghiệp 2005 quy định: “Vốn pháp định là số vốn tối thiểu phải có theo quy định của pháp luật để thành lập doanh nghiệp”). Theo pháp luật hiện hành, cụ thể là theo Luật doanh nghiệp 2014 đã bỏ việc xác định vốn pháp định với mục đích hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh tất cả các ngành nghề mà pháp luật không cấm theo quy định tại Hiến pháp 2013. Tuy nhiên, đối với từng ngành nghề cụ thể vẫn quy định rõ về vốn pháp định để thành lập doanh nghiệp. Vốn pháp định ở Việt Nam được xác định theo từng ngành, nghề kinh doanh cụ thể, không áp dụng cho từng loại hình doanh nghiệp. Các ngành nghề cụ thể này được quy định rải rác trong các Nghị định của Chính phủ, ví dụ như vốn pháp định được áp dụng với các tổ chức tín dụng, trong đó có ngân hàng thương mại cổ phần yêu cầu mức vốn pháp định là 1000 tỷ đồng; chi nhánh ngân hàng nước ngoài yêu cầu mức vốn pháp định là 15 triệu USD theo Nghị định số 141/2006/ND-CP ngày 22/11/2006 hay Kinh doanh bất động sản là 6 tỷ đồng theo Điều 3 Nghị định 153/2007/ND-CP ngày 15/10/2007,….

        Việc quy định mức vốn vốn pháp định cụ thể ở Việt Nam chủ yếu được xác định thông qua các văn bản dưới luật do cơ quan hành pháp ban hành. Trong khi hầu hết các nước trên thế giới đang có xu hướng giảm bớt vai trò và ảnh hưởng của vốn pháp định đối với doanh nghiệp thì ở Việt Nam vốn pháp định lại đang có chiều hướng gia tăng trở lại trong nhiều ngành nghề.

        Đối với những ngành nghề pháp luật không có quy định về mức vốn pháp định thì khi thành lập doanh nghiệp các chủ thể chỉ cần đảm bảo vốn điều lệ của doanh nghiệp khi đăng kí thành lập. Khoản 29 Điều 4  Luật doanh nghiệp 2014  quy định: “Vốn điều lệ là tổng giá trị tài sản do các thành viên đã góp hoặc cam kết góp khi thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh; là tổng giá trị mệnh giá cổ phần đã bán hoặc đã được đăng ký mua khi thành lập doanh nghiệp đối với công ty cổ phần.”

        Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty do thành viên góp để tạo thành vốn của công ty. Pháp luật không quy định mức vốn điều lệ tối thiểu/ tối đa khi thành lập công ty. Tuy nhiên, nếu đăng ký vốn điều lệ quá thấp thì sẽ không thể hiện được tiềm lực tài chính của công ty, nhưng nếu đăng ký vốn điều lệ quá cao so với số vốn thực có sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện sổ sách kế toán, thực hiện nghĩa vụ tài chính…

        Góp vốn là việc đưa tài sản vào công ty để trở thành chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung của công ty. Tổ chức, cá nhân được mua cổ phần của công ty cổ phần, góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh theo quy định của Luật doanh nghiệp, trừ những trường hợp sau đây:

    Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sử dụng tài sản Nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình;

    Các đối tượng không được góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.

    Là sự cam kết mức trách nhiệm bằng vật chất của các thành viên với khách hàng, đối tác, cũng như đối với doanh nghiệp;

    Là vốn đầu tư cho hoạt động của doanh nghiệp;

    Là cơ sở để phân chia lợi nhuận cũng như rủi ro trong kinh doanh đối với các thành viên góp vốn.

    Nhìn chung, khi các Nhà đầu tư kinh doanh muốn thành lập doanh nghiệp thì cần phải có được số vốn pháp định (nếu muốn hoạt động kinh doanh các ngành nghề theo luật định phải có vốn pháp định) hoặc vốn điều lệ. Tất cả những số vốn này phải được khai báo một cách rõ ràng, minh bạch cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi tiến hành các thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp. Việc pháp luật nước ta có những quy định cụ thể về điều kiện về vốn đối với các Nhà đầu tư khi muốn thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam nhằm muốn đảm bảo một cơ sở tài chính vững chắc, cần thiết cho các doanh nghiệp để họ có thể duy trì hoạt động kinh doanh lâu dài, bền vững.
  8. Một số điều kiện khác
    • Điều kiện về hồ sơ đăng ký kinh doanh

      Hồ sơ đăng ký doanh nghiệp là một trong những bước cơ bản quan trọng nhất về mặt thủ tục khi một Nhà đầu tư muốn Nhà nước công nhận mình là một doanh nghiệp hợp pháp. Đáp ứng yêu cầu này, Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã có những quy định cụ thể về hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp để tạo điều kiện cho các Nhà đầu tư hoàn thành và dễ dàng hơn khi muốn thành lập doanh nghiệp. Theo đó, tại các Điều 20, 21, 22, 23, Luật Doanh nghiệp 2014 lần lượt quy định cụ thể, rõ ràng về những yêu cầu đối với hồ sơ đăng ký thành lập các loại hình doanh nghiệp như doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần. Nhìn chung, để đăng ký thành lập doanh nghiệp, Nhà đầu tư cần phải chuẩn bị một bộ hồ sơ có các thành phần chủ yếu sau:

      Thứ nhất, giấy đề nghị  đăng ký kinh doanh. Nội dung của giấy này cũng được pháp luật doanh nghiệp Việt Nam năm 2014 quy định cụ thể tại Điều 24, cụ thể giấu đề nghị đăng ký thành lập doanh nghiệp cần có: Tên doanh nghiệp; Địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp; số điện thoại, số fax, thư điện tử (nếu có); Ngành, nghề kinh doanh; Vốn điều lệ; vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp tư nhân; Các loại cổ phần, mệnh giá mỗi loại cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán của từng loại cổ phần đối với công ty cổ phần; Thông tin đăng ký thuế; Số lượng lao động; Họ, tên, chữ ký, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Thẻ căn cước công dân, Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của chủ doanh nghiệp tư nhân và thành viên hợp danh; Họ, tên, chữ ký, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Thẻ căn cước công dân, Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.

      Thứ hai, điều lệ công ty được quy định tại Điều 25 Luật Doanh nghiệp năm 2014. Điều lệ là bản cam kết của tất cả các thành viên công ty về mục đích thành lập, tổ chức và quản lý hoạt động của doanh nghiệp. Điều lệ doanh nghiệp phải được xây dựng dựa trên tinh thần tự nguyện của các thành viên sáng lập doanh nghiệp và không được trái với quy định của pháp luật về các vấn đề có liên quan.

      Thứ ba, danh sách các thành viên của doanh nghiệp đối với công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc danh sách cổ đông sáng lập và cổ đông là Nhà đầu tư nước ngoài đối với công ty cổ phần theo mẫu do Bộ kế hoạch và đầu tư ban hành.

      Thứ tư, bản sao hợp lệ các giấy tờ có liên quan nhằm xác định nhân thân của các thành viên sáng lập doanh nghiệp; Quyết định thành lập doanh nghiệp; Giấy chứng nhận đăng ký thành lập doanh nghiệp hoặc các tài liệu tương đương khác của tổ chức và văn bản ủy quyền; Giấy tờ xác minh nhân thân của các Nhà đầu tư thành lập doanh nghiệp là người nước ngoài; Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với Nhà đầu tư nước ngoài theo quy định của Luật đầu tư.

      Hồ sơ đăng ký doanh nghiệp theo đó là những khai báo về mặt nhân thân, danh tính của bản thân các chủ đầu tư và do chính họ lập ra do đó pháp luật quy định cho họ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của nội dung hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp và trong suốt thời gian doanh nghiệp này hoạt động. Nếu có các hành vi gian lận, lừa dối Nhà nước trong việc hoàn tất các thủ tục trên, các chủ đầu tư sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về vấn đề này.
    • Điều kiện về ngành nghề kinh doanh

      Theo quy định tại Khoản 1 Điều 7 Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì doanh nghiệp có quyền “tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà luật không cấm”, tức là pháp luật sẽ không thừa nhận quyền kinh doanh của doanh nghiệp nếu ngành nghề mà doanh nghiệp này lựa chọn kinh doanh lại thuộc một trong các ngành nghề được quy định tại Khoản 1 Điều 6 Luật Đầu tư năm 2014 như sau: “Cấm các hoạt động đầu tư kinh doanh sau đây:

      a) Kinh doanh các chất ma túy theo quy định tại Phụ lục 1 của Luật này;

      b) Kinh doanh các loại hóa chất, khoáng vật quy định tại Phụ lục 2 của Luật này;

      c) Kinh doanh mẫu vật các loại thực vật, động vật hoang dã theo quy định tại Phụ lục 1 của Công ước về buôn bán quốc tế các loài thực vật, động vật hoang dã nguy cấp; mẫu vật các loại động vật, thực vật hoang dã nguy cấp, quý hiếm Nhóm I có nguồn gốc từ tự nhiên theo quy định tại Phụ lục 3 của Luật này;

      d) Kinh doanh mại dâm;

      đ) Mua, bán người, mô, bộ phận cơ thể người;

      e) Hoạt động kinh doanh liên quan đến sinh sản vô tính trên người.”

      Thực tế cho thấy không chỉ các ngành nghề trên mà pháp luật nước ta còn quy định thêm rất nhiều các ngành nghề khác mà các doanh nghiệp nói riêng cũng như tất cả các chủ thể kinh doanh khác không được lựa chọn làm ngành nghề kinh doanh của mình. Đây đều là những ngành nghề phạm pháp, gây nguy hại lớn cho xã hội nếu như bị kinh doanh tràn lan và khó có thể bị kiểm soát. Việc pháp luật có những quy định như vậy đã giúp nâng cao ý thức trách nhiệm của các nhà đầu tư, các doanh nghiệp tương lai đối với cộng đồng.
    • Điều kiện về tên doanh nghiệp

      Việc đặt tên doanh nghiệp cũng là một trong những vấn đề được pháp luật doanh nghiệp nước ta đặc biệt quan tâm, là một trong những điều kiện pháp lý mà pháp luật đặt ra cho các chủ thể nếu muốn trở thành doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định về tên doanh nghiệp cụ thể tại các Điều 38, 39 40, 41, 42 như sau: 

      Tên doanh nghiệp phải được viết bằng các chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Việt, các chữ F, J, Z, W, chữ số và ký hiệu.

      Tên loại hình doanh nghiệp được viết là “công ty trách nhiệm hữu hạn” hoặc “công ty TNHH” đối với công ty trách nhiệm hữu hạn; được viết là “công ty cổ phần” hoặc “công ty CP” đối với công ty cổ phần; được viết là “công ty hợp danh” hoặc “công ty HD” đối với công ty hợp danh; được viết là “doanh nghiệp tư nhân”, “DNTN” hoặc “doanh nghiệp TN” đối với doanh nghiệp tư nhân;

      Tên doanh nghiệp phải được gắn tại trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp. Tên doanh nghiệp phải được in hoặc viết trên các giấy tờ giao dịch, hồ sơ tài liệu và ấn phẩm do doanh nghiệp phát hành.

      Không được đặt tên trùng hoặc tên gây nhầm lẫn với tên của doanh nghiệp đã đăng ký. 

      Không sử dụng tên cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tên của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp để làm toàn bộ hoặc một phần tên riêng của doanh nghiệp, trừ trường hợp có sự chấp thuận của cơ quan, đơn vị hoặc tổ chức đó.

      Không sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc.

      Bên cạnh đó, doanh nghiệp chỉ được sử dụng ngành nghề kinh doanh, hình thức đầu tư để cấu thành tên riêng của doanh nghiệp nếu doanh nghiệp có đăng ký ngành, nghề đó thực hiện đầu tư theo hình thức đó. Pháp luật mong muốn tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh ngay từ cái tên của những doanh nghiệp hoạt động trong môi trường đó.

      Không những vậy, ngoài những yêu cầu trong việc đặt tên doanh nghiệp như trên, chủ thể thành lập doanh nghiệp còn phải tuân thủ nghiêm ngặt quy định về các trường hợp cấm đặt tên doanh nghiệp tại Điều 39 Luật Doanh nghiệp năm 2014. Có thể thấy pháp luật nước ta rất ý thức về tầm quan trọng và ý nghĩa của việc đặt tên doanh nghiệp. 

    • Điều kiện về trụ sở doanh nghiệp
      Ngoài những điều kiện nêu trên, Luật Doanh nghiệp tại Điều 43 về Trụ sở chính của doanh nghiệp: trụ sở chính của doanh nghiệp là địa điểm liên lạc của doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam, có địa chỉ được xác định gồm số nhà, ngách, hẻm, ngõ phố, phố, đường hoặc thôn, xóm, ấp, xã, phường, thị trấn, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; số điện thoại, số fax và thư điện tử (nếu có).  Pháp luật quy định rõ ràng về trụ sở doanh nghiệp nhằm đảm bảo chức năng quản lý đối với các doanh nghiệp được thành lập của mình. Địa chỉ trụ sở chính_đầu não của các doanh nghiệp là một phần không thể thiếu trong hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp. Theo đó, địa chỉ phải nằm trên lãnh thổ Việt Nam, được ghi đầy đủ, rõ ràng, rành mạch các đơn vị địa phương cũng như các cách thức liên lạc tốt nhất để các cơ quan nhà nước có mối liên hệ với các doanh nghiệp, tạo điều kiện thông tin được truyền đi nhanh hơn, hiệu quả hơn, đảm bảo cho các hoạt động của doanh nghiệp cũng như các cơ quan Nhà nước được thông suốt.

III. Kết luận

    Doanh nghiệp là những chủ thể cơ bản và quan trọng nhất của thị trường kinh doanh. Do đó, việc pháp luật về doanh nghiệp hiện hành ở nước ta có những quy định cụ thể, rõ ràng như trên về điều kiện để một tổ chức được phép đăng ký thành lập doanh nghiệp là vô cùng thiết thực, cần thiết và hiệu quả. Từ đó cho thấy sự quan tâm, sát sao của các nhà làm luật đối với doanh nghiệp nói riêng cũng như sự phát triển của nền kinh tế nước nhà nói chung, làm một minh chứng cụ thể cho mối quan hệ khăng khít không thể tách rời giữa pháp luật và kinh tế, pháp luật và đời sống.  




Chat Zalo: 0902198579

Copyright © 2019 OPIC LAW All Right Reserved