Pháp luật về quyền tiếp cận đất đai của doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài ở Việt Nam
1.                 
Khái
quát pháp luật về quyền tiếp cận đất đai của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài hiện hành
Trên cơ sở kế thừa và
phát triển những quy định của các đạo Luật Đất đai trước kia, Luật Đất đai năm
2013 tiếp tục quy định theo hướng cho phép doanh nghiệp có vốn ĐTNN có quyền lựa
chọn phương thức tiếp cận đất từ Nhà nước hoặc từ thị trường. Đồng thời, với mỗi
phương thức tiếp cận đất đai, Luật Đất đai năm 2013 cũng đã quy định theo hướng
mở rộng hơn những hình thức nhận QSDĐ của doanh nghiệp có vốn ĐTNN. 
Trường hợp doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài lựa chọn phương thức tiếp cận đất đai từ nhà nước, Luật
đất đai năm 2013 quy định hai hình thức sử dụng đất: (i) Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất để thực
hiện dự án đầu tư kinh doanh nhà ở nhằm mục đích để bán hoặc kết hợp bán và cho
thuê; (ii) Nhà nước cho thuê
đất trả tiền thuê đất hằng năm hoặc trả tiền thuê đất một lần cho toàn bộ thời
gian thuê
Trường hợp doanh nghiệp
có vốn ĐTNN lựa chọn phương thức tiếp cận đất đai từ thị trường thì có thể lựa
chọn một trong các hình thức sau: nhận chuyển nhượng vốn đầu tư là giá trị
QSDĐ; nhận góp vốn bằng QSDĐ; thuê đất, thuê lại đất trong khu công nghiệp, cụm
công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế. Có thể nhận thấy, Luật
Đất đai hiện hành đã mở rộng rất nhiều về quyền tiếp cận đất đai của doanh nghiệp
có vốn ĐTNN so với các Luật Đất đai trước đây. Bên cạnh hình thức thuê đất từ
Nhà nước, lần đầu tiên pháp luật Việt Nam ghi nhận hình thức nhận QSDĐ từ Nhà
nước của doanh nghiệp có vốn ĐTNN bằng hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất
để thực hiện dự án đầu tư kinh doanh nhà ở nhằm mục đích để bán hoặc kết hợp
bán và cho thuê. Đây là quy định nhằm tiến tới quyền tiếp cận đất đai bình đẳng
của các doanh nghiệp nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước. Những hình thức
nhận QSDĐ từ thị trường của doanh nghiệp có vốn ĐTNN cũng được Luật Đất đai năm
2013 quy định mở rộng và thông thoáng hơn so với các Luật Đất đai trước đó. Những
quy định này về cơ bản đã thiết lập sự bình đẳng về quyền tiếp cận đất đai của
các doanh nghiệp có vốn ĐTNN với các doanh nghiệp trong nước, góp phần tạo điều
kiện thuận lợi cho doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong việc tiếp cận đất đai và sử dụng
đất ổn định, lâu dài để thực hiện các dự án đầu tư.
2.                 
Những
bất cập, hạn chế trong các quy định pháp luật về quyền tiếp cận đất đai của
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay
Bên cạnh những kết quả
tích cực đã đạt được thì những quy định về quyền tiếp cận đất đai của doanh
nghiệp có vốn ĐTNN trong Luật Đất đai năm 2013 vẫn bộc lộ một số bất cập, hạn
chế. 
Thứ nhất, khái niệm về
“Doanh nghiệp có vốn ĐTNN” trong Luật Đất đai năm 2013 có nội hàm không thống
nhất và lạc hậu với những quy định trong pháp luật đầu tư hiện hành. Khái niệm về “Doanh nghiệp có vốn ĐTNN”
trong Luật Đất đai năm 2013 được quy định trên cơ sở kế thừa và tương đồng với
quy định về doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Luật Đầu tư năm 2005. Theo đó, Luật Đất
đai năm 2013 đưa ra quy định về khái niệm “Doanh nghiệp có vốn ĐTNN” bằng
phương pháp liệt kê và xác định doanh nghiệp có vốn ĐTNN là chủ thể sử dụng đất
gồm ba nhóm sau: i) Doanh nghiệp 100% vốn ĐTNN; ii) Doanh nghiệp liên doanh;
ii) Doanh nghiệp Việt Nam mà nhà ĐTNN mua cổ phần, sáp nhập, mua lại theo quy định
của pháp luật về đầu tư. Với quy định bằng phương pháp liệt kê này, Luật Đất
đai 2013 đã không thể khái quát hết được những tổ chức kinh tế có thành viên là
chủ thể nước ngoài sử dụng đất tại Việt Nam, ví dụ như những hợp tác xã có
thành viên là người nước ngoài. Bên cạnh đó, Luật Đầu tư hiện hành (Luật Đầu tư
năm 2020 thay thế cho Luật Đầu tư năm 2014 và trước đó là Luật Đầu tư năm 2005)
không sử dụng khái niệm “Doanh nghiệp có vốn ĐTNN”, mà sử dụng khái niệm “Tổ chức
kinh tế có vốn ĐTNN” với nội dung thể hiện tính khái quát cao và phù hợp hơn với
thực tiễn. Theo quy định của Luật Đầu tư năm 2020, “Tổ chức kinh tế có vốn ĐTNN
là tổ chức kinh tế có nhà ĐTNN là thành viên hoặc cổ đông, được thành lập và hoạt
động theo quy định của pháp luật Việt Nam, gồm doanh nghiệp, hợp tác xã, liên
hiệp hợp tác xã và các tổ chức khác thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh”. Ngoài ra trong các văn bản pháp
luật về đầu tư và doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay không còn điều chỉnh về
“Doanh nghiệp liên doanh”.
Trong khi đó, Luật Đất
đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành vẫn sử dụng thuật ngữ “Doanh
nghiệp có vốn ĐTNN” với nội hàm có liệt kê loại hình “Doanh liên doanh”. Điều
này không chỉ tạo ra sự thiếu thống nhất giữa pháp Luật Đất đai và pháp luật đầu
tư mà còn gây ra khó khăn đối với quá trình thực hiện quyền tiếp cận đất đai của
doanh nghiệp có vốn ĐTNN, cũng như tác động tiêu cực đến hiệu quả của công tác quản
lý, sử dụng đất đai và thu hút đầu tư nước ngoài ở nước ta.
Thứ hai, chưa bảo đảm
bình đẳng về quyền tiếp cận đất đai giữa doanh nghiệp có vốn ĐTNN với tổ chức
kinh tế trong nước.
- Đối với phương thức tiếp cận đất đai từ
Nhà nước trong hình thức được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, doanh
nghiệp có vốn ĐTNN chỉ có thể được thực hiện trong trường hợp duy nhất đó là sử
dụng đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp
cho thuê. Trong khi đó, ngoài trường hợp này thì tổ chức kinh tế trong nước còn
được Nhà nước giao đất có thu tiền để thực hiện dự án đầu tư hạ tầng nghĩa
trang, nghĩa địa để chuyển nhượng QSDĐ gắn với hạ tầng”. Quy định này thể hiện
sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn ĐTNN
ĐTNN, chưa thể chế hóa một cách triệt để chủ trương “Thực hiện bình đẳng trong
tiếp cận các yếu tố đầu vào của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế”.
- Trường hợp doanh nghiệp
có vốn ĐTNN tiếp cận đất đai từ thị trường bị giới hạn hơn so với tổ chức kinh
tế trong nước. Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, doanh nghiệp có vốn
ĐTNN chỉ có thể nhận QSDĐ từ thị trường thông qua ba hình thức, đó là: Nhận
chuyển nhượng vốn đầu tư là giá trị QSDĐ; Nhận góp vốn bằng QSDĐ; Thuê đất,
thuê lại đất trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ
cao, khu kinh tế. Trong khi đó, ngoài ba hình thức đã nêu, tổ chức kinh tế
trong nước còn có thể nhận QSDĐ thông qua nhiều hình thức khác như: nhận chuyển
nhượng QSDĐ, nhận tặng cho QSDĐ, nhận thừa kế QSDĐ. Bên cạnh đó, việc tiếp cận
đất đai từ ba hình thức trên của doanh nghiệp có vốn ĐTNN cũng bị giới hạn hơn
rất nhiều so với tổ chức kinh tế trong nước. Điều này dẫn đến trên thực tế,
phương thức tiếp cận đất đai của doanh nghiệp có vốn ĐTNN chủ yếu thông qua thị
trường sơ cấp. Doanh nghiệp có vốn ĐTNN dường như chưa được tiếp cận đất đai
cho mục đích đầu tư, sản xuất, kinh doanh tại thị trường sử dụng đất thứ cấp”.
Những rào cản này đã đi ngược lại các cam kết của Việt Nam trong hội nhập quốc
tế, tác động tiêu cực đến tính hấp dẫn của môi trường đầu tư, kinh doanh và hạn
chế năng lực cạnh tranh của nền kinh tế28
Thứ ba, quy định cụ thể
về các trường hợp nhận QSDĐ của doanh nghiệp có vốn ĐTNN chưa bảo đảm tính hợp
lý.
- Theo quy định của Luật
Đất đai 2013, doanh nghiệp có vốn ĐTNN được nhận chuyển nhượng vốn đầu tư là
giá trị QSDĐ; khi đó, doanh nghiệp có vốn ĐTNN có quyền và nghĩa vụ tương tự
như trường hợp được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc được Nhà nước
cho thuê đất có thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê.
Quy định này, một mặt
chưa phù hợp với quy định của pháp luật dân sự, pháp luật doanh nghiệp; mặt
khác, chưa rõ ràng trong việc xác định đó là trường hợp doanh nghiệp có vốn
ĐTNN nhận QSDĐ thông qua nhận chuyển nhượng dự án hay thông qua nhận chuyển nhượng
cổ phần trong doanh nghiệp khác.
- Luật Đất đai năm 2013
đã quy định cụ thể hơn so với Luật Đất đai năm 2003 về nghiệp có vốn ĐTNN) được
nhận góp vốn bằng QSDĐ. Ngoài ra, những quy định này cũng chưa xác định rõ về
thời điểm doanh nghiệp có vốn ĐTNN được nhận góp vốn bằng QSDĐ, khi thành lập mới
doanh nghiệp hay trong quá trình doanh nghiệp đã thành lập và đi vào hoạt động.
Bên cạnh đó, quy định về diện chủ thể được góp vốn bằng QSDĐ với doanh nghiệp
có vốn ĐTNN còn chưa hợp lý khi chỉ cho phép loại hình doanh nghiệp này nhận
góp vốn bằng QSDĐ từ tổ chức kinh tế trong nước mà không ghi nhận quyền đó với
các loại chủ thể khác. Nội dung này phần nào thể hiện sự thiếu bình đẳng giữa
doanh nghiệp có vốn ĐTNN và doanh nghiệp trong nước khi thực hiện hình thức nhận
QSDĐ thông qua giao dịch góp vốn.
- Quy định của Luật Đất
đai năm 2013 về các trường hợp nhận QSDĐ của doanh nghiệp có vốn ĐTNN chưa bao
quát được hết các trường hợp nhận QSDĐ của loại doanh nghiệp này trên thực tế.
Trên thực tế, ngoài những
trường hợp nhận QSDĐ được liệt kê tại Điều 169 Luật Đất đai năm 201333, doanh
nghiệp có vốn ĐTNN có thể nhận QSDĐ trong những trường hợp sau: thuê, thuê lại
QSDĐ của tổ chức kinh tế trong nước34; nhận QSDĐ thông qua việc mua nhà, công
trình xây dựng để sử dụng làm văn phòng làm việc, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ35; nhận QSDĐ trong trường hợp tổ chức lại doanh nghiệp (doanh nghiệp có vốn
ĐTNN thực hiện chia, tách, hợp nhất hoặc sáp nhập doanh nghiệp). Như vậy, có thể
thấy rằng, quy định về các trường hợp nhận QSDĐ của doanh nghiệp có vốn ĐTNN
trong Luật Đất đai năm 2013 chưa đảm bảo tính toàn diện và thiếu thống nhất với
các văn bản pháp luật khác.
3.                 
Kiến
nghị
- Thay thế thuật ngữ “Doanh nghiệp có vốn ĐTNN” bằng
thuật ngữ “Tổ chức kinh tế có vốn ĐTNN” như quy định của Luật Đầu tư năm 2020 để
bảo đảm tính khoa học và sự thống nhất trong hệ thống pháp luật, tạo tiền đề
cho việc thực hiện quyền tiếp cận đất đai của doanh nghiệp có vốn ĐTNN trên thực
tế được chính xác và hiệu quả.
- Sửa đổi các quy định về những trường hợp nhận
QSDĐ của doanh nghiệp có vốn ĐTNN nhằm bảo đảm sự bình đẳng với doanh nghiệp
trong nước ở cả phương thức tiếp cận đất đai trực tiếp từ Nhà nước và phương thức
tiếp cận đất đai từ thị trường trên cơ sở thể chế hóa triệt để chủ trương “Thực
hiện nhất quán một chế độ pháp lý kinh doanh cho các doanh nghiệp, không phân
biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế”
- Quy định chi tiết, cụ thể hơn về các trường hợp nhận QSDĐ của doanh nghiệp có vốn ĐTNN, bảo đảm sự phù hợp với pháp luật đầu tư và pháp luật doanh nghiệp. Bổ sung quy định về một số trường hợp nhận QSDĐ của doanh nghiệp có vốn ĐTNN để bảo đảm sự toàn diện trong điều chỉnh pháp luật đối với quyền tiếp cận đất đai của loại chủ thể này./.
 
  
 Copyright © 2019 OPIC LAW All Right Reserved
Những điểm mới trong luật tạm giữ, tạm giam
Tháng Ba 22, 2019