Có thể thấy rằng trước khi Luật Doanh nghiệp năm 2014 được ban hành, các khái niệm về vốn công ty, đặc biệt đối với công ty cổ phần chưa đủ rõ ràng, chưa thật chặt chẽ và có sự chưa thống nhất giữa quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005 và văn bản hướng dẫn thi hành. Cụ thể, Luật Doanh nghiệp 2005 sử dụng thuật ngữ “ cổ phần được quyền chào bán”; trong khi đó Nghị định số 102/2010/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp 2005 lại sử dụng thuật ngữ “ cổ phần đã phát hành”, “cổ phần được quyền phát hành”. Điều này đã gây ra những tác động không mong muốn như: nhầm lẫn về cơ cấu sở hữu thực tế trong doanh nghiệp, tranh chấp không đáng có trong nội bộ công ty.
Để hoàn thiện những bất cập về vốn điều lệ so với Luật Doanh nghiệp 2005, Luật doanh nghiệp 2014 đã quy định cụ thể như sau: “Vốn điều lệ là tổng giá trị tài sản do các thành viên đã góp hoặc cam kết góp khi thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh; là tổng giá trị mệnh giá cổ phần đã bán hoặc đã được đăng ký mua khi thành lập doanh nghiệp đối với công ty cổ phần”.
Vốn điều lệ khi đăng ký thành lập doanh nghiệp là vốn do các thành viên, cổ đông cam kết góp trong một thời hạn nhất định. Đối với công ty cổ phần: Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần.
Theo quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2005 thời hạn góp vốn đối với các loại hình doanh nghiệp là không thống nhất. Đối với loại hình công ty cổ phần, thời hạn góp vốn là 90 ngày kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, công ty TNHH là 36 tháng. Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã quy định thống nhất về thời hạn góp vốn điều lệ đối với các loại hình doanh nghiệp. Theo đó, thành viên, cổ đông phải thanh toán phần vốn góp, số cổ phần đã đăng ký mua cho công ty đủ và đúng loại tài sản như đã cam kết/đăng ký mua khi đăng ký thành lập doanh nghiệp trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Vốn điều lệ có thể được hình thành từ nhiều loại tài sản khác nhau.
Tài sản góp vốn có thể là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác có thể định giá được bằng Đồng Việt Nam.
Riêng đối với quyền sở hữu trí tuệ, Luật cũng quy định rõ quyền sở hữu trí tuệ được sử dụng để góp vốn bao gồm quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và các quyền sở hữu trí tuệ khác theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ. Chỉ cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu hợp pháp đối với các quyền nói trên mới có quyền sử dụng các tài sản đó để góp vốn.
Vốn điều lệ là số vốn do các thành viên, cổ đông góp hoặc cam kết góp trong một thời hạn nhất định do Điều lệ công ty quy định. Luật doanh nghiệp 2014 quy định trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp chủ sở hữu, các thành viên, cổ đông phải thanh toán phần vốn góp, số cổ phần đã đăng ký mua. Trong thời hạn này, thành viên có các quyền và nghĩa vụ tương ứng với tỷ lệ phần vốn góp như đã cam kết góp.
Tuy nhiên, có rất nhiều trường hợp doanh nghiệp góp vốn điều lệ không đúng hạn hoặc góp không đúng số vốn đã cam kết.
2.1. Đối với công ty TNHH hai thành viên trở nên.
- Thành viên chưa góp vốn sẽ đương nhiên không còn là thành viên công ty;
- Thành viên chưa góp vốn đủ như đã cam kết sẽ chỉ có quyền tương ứng với phần vốn đã góp;
Như vậy, thành viên chưa góp vốn sẽ đương nhiên không còn là thành viên công ty điều đó đồng nghĩa với việc thành viên đó mất toàn bộ quyền của thành viên công ty nhưng không đồng nghĩa với việc họ cũng không còn nghĩa vụ gì đối với công ty. Theo quy định tại Khoản 4 Điều 48 Luật Doanh nghiệp, khi xảy ra trường hợp thành viên chưa góp vốn hoặc chưa góp vốn đủ thì doanh nghiệp phải thực hiện thủ tục đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ, tỷ lệ vốn góp của các thành viên trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày hết hạn góp vốn (tức ngày thứ 90 kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp). Đến thời điểm doanh nghiệp nộp hồ sơ thay đổi vốn điều lệ và tỷ lệ góp vốn, thành viên vẫn phải chịu trách nhiệm đối với phần vốn mà mình cam kết góp.
Ngoài việc phải chịu những rủi ro trên, doanh nghiệp phải tiến hành điều chỉnh vốn điều lệ, tỷ lệ vốn góp, loại hình doanh nghiệp (nếu phải thay đổi) và đăng ký thay đổi với Sở Kế hoạch và đầu tư nơi doanh nghiệp đặt trụ sở.
Trường hợp công ty không đăng ký thay đổi với cơ quan đăng ký kinh doanh khi không góp đủ vốn điều lệ như đã đăng ký bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng, buộc đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ, tỷ lệ phần vốn góp của các thành viên (khoản 3 Điều 28 Nghị định 50/2016/NĐ - CP).
2.2. Đối với công ty cổ phần
- Cổ đông chưa thanh toán số cổ phần đã đăng ký mua sẽ đương nhiên không còn là cổ đông của công ty và không được chuyển nhượng quyền mua cổ phần đó cho người khác;
- Cổ đông chỉ thanh toán một phần số cổ phần đã đăng ký mua sẽ có quyền biểu quyết, nhận lợi tức và các quyền khác tương ứng với số cổ phần đã thanh toán; không được chuyển nhượng quyền mua số cổ phần chưa thanh toán cho người khác;
- Số cổ phần chưa thanh toán được coi là cổ phần chưa bán và Hội đồng quản trị được quyền bán;
Trường hợp này công ty phải đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ bằng giá trị mệnh giá số cổ phần đã được thanh toán đủ và thay đổi cổ đông sáng lập trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày kết thúc thời hạn phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua. Trường hợp số cổ phần chưa thanh toán hội đồng quản trị chào bán và không làm thay đổi vốn điều lệ, công ty phải đăng ký thay đổi cổ đông sáng lập.\
Trường hợp công ty không đăng ký thay đổi với cơ quan đăng ký kinh doanh bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi không đăng ký thay đổi với cơ quan đăng ký kinh doanh khi không góp đủ vốn Điều lệ như đã đăng ký và buộc đăng ký điều chỉnh vốn Điều lệ, tỷ lệ cổ phần của cổ đông bằng số vốn đã góp (khoản 3 Điều 28 Nghị định 50/2016/NĐ - CP).
2.3. Thực tiễn áp dụng pháp luật hiện nay và hướng giải quyết.
Tuy Luật doanh nghiệp năm 2014 đã quy định về vốn điều lệ, các quy định xử phạt về việc không góp vốn hoặc góp vốn không đủ. Luật quy định trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, các thành viên, cổ đông phải thanh toán đủ số vốn góp, cổ phần đã đăng ký mua. Tuy nhiên trên thực tế lại không có cơ quan nào kiểm tra, giám sát việc doanh nghiệp đã góp đủ vốn hay chưa dẫn đến nhiều doanh nghiệp hiện nay chưa thực hiện đúng quy định của pháp luật.
Phương hướng giải quyết
Pháp luật cần quy định rõ cơ quan kiểm tra, giám sát việc góp vốn của các doanh nghiệp, doanh nghiệp cần nộp bộ hồ sơ tới cơ quan đăng ký kinh doanh để chứng minh việc doanh nghiệp đã góp đủ vốn điều lệ như đã đăng ký.
Với cơ chế thông thoáng của Luật Doanh nghiệp 2014, hiện nay thủ tục thành lập doanh nghiệp tương đối đơn giản và dễ dàng. Tuy nhiên, cũng chính vì thủ tục đơn giản nên không ít chủ doanh nghiệp chưa tìm hiểu hết về quyền, nghĩa vụ và các hành vi bị cấm của doanh nghiệp, một trong số các hành vi bị cấm là kê khai khống vốn đăng ký (vốn điều lệ), không góp đủ và đúng hạn số vốn như đã đăng ký, cố ý định giá tài sản góp vốn không đúng giá trị thực tế. Việc vi phạm nghĩa vụ góp vốn sẽ dẫn đến nhiều rủi ro trong quá trình hoạt động của chính doanh nghiệp.
Thứ nhất, doanh nghiệp sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định tại Điều 28, Nghị định 50/2016/NĐ - CP quy định về vi phạm khi thành lập doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.
Thứ hai, trong trường hợp sảy ra tranh chấp, doanh nghiệp sẽ chịu trách nhiệm pháp lý cao hơn so với thực tế. Theo quy định với các loại hình doanh nghiệp đăng ký vốn điều lệ (công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh), doanh nghiệp chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn điều lệ đã đăng ký. Ví dụ, doanh nghiệp đăng ký vốn điều lệ 10 tỷ, chỉ thực hiện góp vốn 1 tỷ nhưng không đăng ký giảm vốn điều lệ bằng số vốn thực góp; trong trường hợp tranh chấp hợp đồng kinh tế, doanh nghiệp sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý là 10 tỷ thay vì 1 tỷ như số vốn thực góp.
Thứ ba, trong trường hợp kinh doanh có lợi nhuận, hoặc thực hiện các nghĩa vụ khác doanh nghiệp phải đóng góp ở mức cao hơn so với thực tế. Bên cạnh đó rất dễ sảy ra tranh chấp khi phân chia lợi nhuận giữa các thành viên góp vốn hoặc các cổ đông sáng lập, lý do là việc phân chia lợi nhuận dựa trên tỷ lệ vốn góp đăng ký nhưng lại khác so với vốn góp thực tế.
Thứ tư, rủi ro về mặt pháp lý giữa các thành viên góp vốn hoặc các cổ đông sáng lập. Trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp, việc xác định quyền lợi, nghĩa vụ của các thành viên góp vốn dựa trên số vốn thực góp có ý nghĩa rất quan trọng. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014, thành viên hoặc cổ đông không góp vốn khi đến hạn sẽ không còn là thành viên hoặc cổ đông của doanh nghiệp. Tuy nhiên, vì một lý do nào đó doanh nghiệp vẫn công nhận là thành viên hoặc cổ đông hoặc trong một trường hợp khác, nếu một trong số các thành viên hoặc cổ đông phát sinh quan hệ pháp lý với bên thứ ba như cho, tặng, thừa kế, hoặc chuyển nhượng phần vốn góp … các trường hợp này sẽ dẫn tới các quan hệ pháp lý rất phức tạp khi tỷ lệ phiếu biểu quyết của các thành viên không rõ ràng.
Thứ năm, làm cho môi trường kinh doanh thiếu minh bạch, khi không góp đủ vốn như đã đăng ký, các doanh nghiệp khi tiến hành ký kết hợp đồng với nhau sẽ không tin tưởng vào mức vốn điều lệ doanh nghiệp đã đăng ký, thay vào đó họ sẽ tìm hiểu từ các nguồn thông tin tài chính tin cậy hơn như báo cáo tài chính, hồ sơ năng lực …Đối với cơ quan quản lý nhà nước nếu chỉ nhìn vào số vốn đăng ký sẽ không thấy được quy mô và năng lực thực tế của doanh nghiệp để đưa ra những chính sách hợp lý.
    Vốn điều lệ là một trong những yêu cầu tiên quyết của doanh nghiệp, vì
vậy các cá nhân, tổ chức khi thành lập doanh nghiệp cần nắm rõ các quy định của
pháp luật, vai trò và rủi ro pháp lý khi không góp vốn. Một trong những vấn đề
cần cải thiện trong môi trường kinh doanh ở Việt Nam là minh bạch tài chính
doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp 2014 không khuyến khích doanh nghiệp giảm vốn
điều lệ, tuy nhiên với các rủi ro nêu trên, bắt buộc các doanh nghiệp phải góp
đủ vốn hoặc giảm vốn về số thực có để thể hiện đúng tình hình tài chính của
doanh nghiệp, qua đó doanh nghiệp lấy lại niềm tin với đối tác kinh doanh.
 
  
 Copyright © 2019 OPIC LAW All Right Reserved
Những điểm mới trong luật tạm giữ, tạm giam
Tháng Ba 22, 2019