Skip to main content

Thỏa thuận trọng tài giải quyết tranh chấp

I. Lý luận chung

1. Khái niệm chung

  1. Khái niệm trọng tài thương mại
    Theo cuốn "Đại từ điển kinh tế thị trường": "Trọng tài làm một phương thức giải quyết một cách hòa bình các vụ tranh chấp. Là chỉ đôi bên đương sự tự nguyện đem những sự việc, những vấn đề tranh chấp giao cho bên thứ ba có tư cách công bằng chính trực xét xử, lời phán quyết do người này đưa ra có hiệu lực ràng buộc với cả hai bên"
    Khoản 1- Điều 3 LTTTM 2010 quy định: “Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này.”
    Trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức đó là trọng tài quy chế và trọng tài vụ việc:
    • Trọng tài quy chế là hình thức giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài theo quy định của Luật Trọng tài thương mại 2010 và quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài đó. Như vậy, theo pháp luật Việt Nam trọng tài quy chế được tổ chức dưới dạng các Trung tâm trọng tài.
    • Trọng tài vụ việc còn được gọi là “ Hội đồng trọng tài do các bên thỏa thuận thành lập”. Trọng tài vụ việc là hình thức giải quyết tranh chấp theo quy định của Luật Trọng tài thương mại và trình tự thủ tục do các bên thỏa thuận.
  2. Khái niệm thỏa thuận trọng tài 
    Theo khoản 2 Điều 3 Luật trọng tài thương mại 2010 thì: “Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh”. Như vậy có thể hiểu khái quát thỏa thuận trọng tài là một thỏa thuận bằng văn bản theo đó các bên ký kết nhất trí đưa tất cả hoặc một số tranh chấp đã hoặc có thể phát sinh từ giao dịch thương mại có khả năng được áp dụng trọng tài ra giải quyết bằng con đường trọng tài.
  3. Đặc điểm của thỏa thuận trọng tài trọng
    • Thỏa thuận trọng tài thể hiện ý chí của các bên có liên quan trong việc giải quyết tranh chấp. Khi có tranh chấp xảy ra các bên thống nhất ý chí với nhau về việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
    • Thỏa thuận trọng tài được xác lập trước khi xảy ra tranh chấp hoặc sau khi xảy ra tranh chấp.
    • Thỏa thuận trọng tài được xác lập dưới hình thức văn bản. Thỏa thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex, thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật; thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên.
    • Nội dung của thỏa thuận trọng tài chính là việc xác định cách thức, trình tự, thủ tục, thẩm quyền và trách nhiệm của các bên liên quan khi cần giải quyết những tranh chấp, bất đồng phát sinh hay liên quan đến hợp đồng chính. Một thỏa thuận trọng tài có giá trị pháp lý khi đáp ứng được những yêu của của pháp luật về mặt nội dung. Phải đảm bảo tính rõ ràng, chính xác, xác dịnh thẩm quyền của một Hội đồng trọng tài cụ thể giải quyết tranh chấp và quy tắc tố tụng nhất định.
    • Thỏa thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm mất hiệu lực của thỏa thuận trọng tài.
  4. Ý nghĩa của thỏa thuận trọng tài trong giải quyết tranh chấp thương thương mại.
    • Thỏa thuận trọng tài đảm bảo quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp ( các bên được thỏa thuận hình thức trọng tài, lựa chọn trọng tài viên...)
    • Thỏa thuận trọng tài loại trừ thẩm quyền xét xử của tòa án đổi với tranh chấp.
    • Thỏa thuận trọng tài là yếu tố quan trọng nhất, luôn được đặt lên hàng đầu từ khi đưa tranh chấp thương mại ra trọng tài cho tới khi phán quyết cuối cùng được đưa ra. Việc xác định thẩm quyền của Hội đồng trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp phụ thuộc vào các giới hạn đặt ra trong thỏa thuận trọng tài.

II. Bình luận các quy định của pháp luật về thỏa thuận trọng tài thương mại.

1. Hình thức của thỏa thuận trọng tài

Hình thức của thỏa thuận trọng tài được quy định tại điều 16-LTTTM 2010 quy định

  1. Thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng
  2. Thoả thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Các hình thức thỏa thuận sau đây cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản:
    • Thoả thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex, thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật;
    • Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên;
    • Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên;
    • Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác;
    • Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thoả thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận.
  3. Theo quy định tại Điều 16- LTTTM năm 2010 về hình thức thỏa thuận trọng tài được xác lập dưới hình thức là một điều khoản hoặc được xác lập dưới hình thức là một thỏa thuận riêng. Cũng như quy định tại  PLTTTM 2003, LTTTM 2010 cũng quy định thỏa thuận trọng tài phải được xác lập bằng văn bản. Tuy nhiên, phạm vi khái niệm văn bản của LTTTM 2010 đã rộng hơn nhiều so với PLTTTM 2003. PLTTTM 2003 quy định “Thoả thuận trọng tài phải được lập bằng văn bản. Thoả thuận trọng tài thông qua thư, điện báo, telex, fax, thư điện tử hoặc hình thức văn bản khác thể hiện rõ ý chí của các bên giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài được coi là thoả thuận trọng tài bằng văn bản.” , nhưng LTTTM đã mở rộng hơn khái niệm văn bản  ngoài thỏa thuận được xác lập giữa các bên bằng telegram, fax, telex, thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật; thỏa thuận còn được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên; thỏa thuận luật sư công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên; trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác; qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thoả thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận.
    Quy định về hình thức của thỏa thuận trọng tài trong LTTTM 2010 đã phù hợp hình thức thỏa thuận trọng tài được quy định tại Luật mẫu UNCITRAL. Quy định như vậy đã giúp các  trung tâm trọng tài hay hội đồng trọng tài dễ ràng tiếp nhận các vụ tranh chấp mà không phải dè dặt suy đoán với một vài khác biệt về hình thức của thỏa thuận trọng tài, đồng thời tạo nên sự tương đồng của pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam với luật trọng tài của nhiều nước trên thế giới. Không chỉ vậy LTTTM 2010 còn cho phép các bên có thể xác lập thỏa thuận trọng tài dưới dạng một điều khoản hoặc hình thức thỏa thuận riêng.
    Như vậy pháp luật Việt Nam chỉ thừa nhận hình thức của thỏa thuận trọng tài được thành lập bằng văn bản và  không phụ thuộc và nó là một điều khoản hay văn bản riêng biệt. Việc quy định như vậy nhằm hạn chế những tranh chấp xảy ra sau này về thỏa thuận trọng tài cũng như để làm căn cứ khởi kiện ra trọng tài thương mại hay tòa án có thẩm quyền. Quy định về hình thức trọng tài pháp luật thương mại của Việt Nam là khá hợp lý.

2. Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài.

  1. Thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi không đáp ứng một trong các điều kiện sau đây
    • Thứ nhất là tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực  không thuộc thẩm quyền trọng tài. Điều 2 LTTTM 2010 quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp bằng trọng tài khi tranh chấp đó là  tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại, tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại, tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài. Việc quy định trọng tài vô hiệu khi thỏa thuận trọng tài không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điểu 2 LTTTM 2010. Quy định này là hợp lý và phù hợp với pháp luật và thực tiễn trọng tài quốc tế.
    • Thứ hai là người xác lập thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Ví dụ: Đối với các doanh nghiệp thì người có quyền xác lập thỏa thuận trọng tài là người đại diện theo pháp luật của các doanh nghiệp.
    • Thứ ba là người xác lập thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy định của BLDS.
    • Thứ tư  là hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16 của Luật này.
    • Thứ năm là một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vô hiệu. Nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bên ký kết bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép, pháp luật đã trao cho họ quyền yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài đó là vô hiệu. Khoản 5 Điều 18 LTTTM đã xóa bỏ quy định thời hiệu yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu là 6 tháng kể từ ngày ký kết thỏa thuận trọng tài ở khoản 6 Điều 10 Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003. Luật xóa đi thời hạn 6 tháng trong trường hợp này đã góp phần đảm bảo lợi ích các bên khi ký kết thỏa thuận trọng tài. Bên bị lừa dối đe dọa có thể gửi yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu bất cứ khi nào họ muốn.
    • Thứ sáu là thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.  Đây là một quy định hoàn toàn mới so với PLTTTMnăm 2003. Nếu so với quy định thỏa thuận trọng tài trái với quy định của pháp luật thì quy định này rõ ràng là đã mở rộng phạm vi thỏa thuận trọng tài. Chỉ những thỏa thuận vi phạm điều cấm của pháp luật mới bị coi là vô hiệu.
    • So với PLTTTM năm 2003, LTTTM 2010 quy định phạm vi thỏa thuận trọng tài vô hiệu vẫn còn rộng nhưng đã hợp lý hơn. Luật trọng tài thương mại hiện hành đã bổ sung thêm một số quy định mới về trường hợp Thỏa thuận trọng tài vô hiệu.
  2. Tính độc lập của thỏa thuận trọng tài 
    • Điều 19- LTTTM 2010 quy định “Thoả thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm mất hiệu lực của thoả thuận trọng tài.” 
    • Như vậy thỏa thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm mất hiệu lực của thỏa thuận trọng tài.

3. Các trường hợp đặc biệt của thỏa thuận trọng tài

    Quyền lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng LTTTM 2010 đã có thêm quy định “Quyền lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng” – Điều 17 LTTTM 2010.

    Việc quy định như vậy sẽ đảm bảo tính linh hoạt cho người tiêu dùng, nếu người tiêu dùng đồng ý với điều khoản trọng tài, tranh chấp vẫn được giải quyết bằng trọng tài. Ngược lại nếu không đồng ý người tiêu dùng có cơ hội để xem xét và quyết định. Trong trường hợp người tiêu dùng đồng ý với thỏa thuận trọng tài thì xác nhận vào văn bản riêng. Đây là một quy định riêng của LTTTM 2010 nhằm bảo vệ người tiêu dùng , bổ sung cho các nguyên tắc chung khác trong pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

    Khoản 2,3- Điều 5 LTTTM 2010 quy định những trường hợp đặc biệt vẫn có thể giải quyết bằng trọng tài. Đó là các trường hợp một bên tham gia thỏa thuận trọng tài là cá nhân chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự và trường hợp một bên thỏa thuận trọng tài là tổ chức phải chấm dứt hoạt động, bị phá sản, giải thể, hợp nhất sáp nhập, chia tách hoặc chuyển đổi hình thức tổ chức. LTTTM 2010 đã dự liệu được những tình huống trên, như vậy khi xảy ra những tình huống trên thì các chủ thể không bị lúng túng trong việc lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp.

4. Thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện.

    LTTTM 2010 ra đời với sự bổ sung quan trọng khi đề cập chế định “thỏa thuận trọng tài không thực hiện được”. Tại Điều 6 quy định: “Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được”.

    Đồng thời, Luật cũng đưa ra một số trường hợp thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được và hướng giải quyết đối với các trường hợp này tại khoản 3, 4, 5 Điều 43 như sau:

  • (3) Trường hợp các bên đã có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài cụ thể nhưng Trung tâm trọng tài này đã chấm dứt hoạt động mà không có tổ chức trọng tài kế thừa, thì các bên có thể thỏa thuận lựa chọn Trung tâm trọng tài khác; nếu không thỏa thuận được, thì có quyền khởi kiện ra Tòa án để giải quyết.
  • (4) Trường hợp các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng tài viên trọng tài vụ việc, nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà Trọng tài viên không thể tham gia giải quyết tranh chấp, thì các bên có thể thỏa thuận lựa chọn Trọng tài viên khác để thay thế; nếu không thỏa thuận được, thì có quyền khởi kiện ra Tòa án để giải quyết.
  • (5) Trường hợp các bên đã có thỏa thuận trọng tài nhưng không chỉ rõ hình thức trọng tài hoặc không thể xác định được tổ chức trọng tài cụ thể, thì khi có tranh chấp, các bên phải thỏa thuận lại về hình thức trọng tài hoặc tổ chức trọng tài cụ thể để giải quyết tranh chấp. Nếu không thỏa thuận được thì việc lựa chọn hình thức, tổ chức trọng tài để giải quyết tranh chấp được thực hiện theo yêu cầu của nguyên đơn”.

Việt quyết định thảo thuận trọng tài là không thể thực hiện được thuộc thẩm quyền của Tòa án và trọng tài thương mại. Theo đó, trước khi xem xét nội dung vụ tranh chấp, Hội đồng trọng tài phải xem xét thỏa thuận trọng tài có thể thực hiện được hay không. Trong trường hợp xác định rõ thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được thì Hội đồng trọng tài quyết định đình chỉ việc giải quyết và thông báo ngay cho các bên biết (khoản 1 Điều 43 LTTTM 2010)”. Nếu các bên không đồng ý quyết định của Hội đồng trọng tài thì có quyền gửi đơn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xem xét lại quyết định của Hội đồng trọng tài. Khi khiếu nại ra tòa thì quyết định của Tòa án là cuối cùng.

    Đây có thể coi là một bước tiến rõ rệt của pháp luật về trọng tài thương mại tại Việt Nam, Với việc chỉ rõ những thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, luật đã chỉ rõ thẩm quyền của Tòa án trong những trường hợp này, góp phần hạn chế những tranh chấp về thẩm quyền giữa trọng tài và tóa án trong thực tế.

III. Thực tiễn áp dụng và giải pháp nâng cao.

  1. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thỏa thuận trọng tài
    • Thứ nhất, doanh nghiệp chưa có một thói quen đặt ra câu hỏi là cần lực chọn trọng tài hay tòa án khi ký kết hợp đồng và tại sao lại như vậy. Một số doanh nghiệp Việt Nam, do không chọn trước trọng tài (hay Tòa án) khi có tranh chấp phát sinh trong các vụ kiện có yếu tố nước ngoài, họ không biết quyết định như thế nào.
    • Thứ hai, nếu có chọn trọng tài thì họ cũng chỉ quy định một cách chung chung, không chính xác. Ví dụ : trong các điều khoản trọng tài, họ vừa chọn trọng tài lại vừa chọn Tòa án; chọn trọng tài A để phúc thẩm trọng tài B; chọn trọng tài A nhưng lại quy định dung quy tắc trọng tài B để áp dụng; ghi tên tổ chức trọng tài hoặc ghi quy tắc tố tụng không chính xác… Những điều khoản trọng tài như vậy rất dễ bị tranh chấp về tính hiệu lực của nó, khả năng vô hiệu của điều khoản trọng tài sẽ rất cao. Một điều khoản trọng tài bị coi là vô hiệu sẽ dẫn đến hệ quả phức tạp, nhất là việc quyết định trọng tài có thể bị hủy, vụ tranh chấp sẽ bị kéo dài không cần thiết.
    • Thứ ba, nếu có chọn trọng tài, các bên trong thỏa thuận trọng tài cũng chỉ “mang máng” biết về trọng tài. Họ không hiểu bản chất của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài hoặc hiểu không rõ về tổ chức trọng tài hoặc quy tắc tố tụng trọng tài mà họ lựa chọn. Sự thỏa thuận chọn trọng tài, chọn quy tắc, chọn địa địa điểm xét xử và luật áp dụng nhiều khi là do các quan niệm rằng tranh chấp sẽ không xẩy ra, nếu xẩy ra thì sẽ thương lượng tiếp. Với trường hợp này sẽ làm cho nhiều doanh nghiệp bị bất ngờ, lung túng vì trước đó, họ không biết gì hơn về trọng tài, về pháp luật họ chọn, quá trình trọng tài hoặc bị kéo dài, hoặc có rủi ro.
  2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả về áp dụng pháp luật hiện hành về thỏa thuận trọng tài trong thực tiễn ở Việt Nam
    • Thứ nhất, Cần hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật về thỏa thuận trọng tài thương mại phù hợp và dự trên các điều khoản trọng tài mẫu: Một điều khoản trọng tài rõ ràng, đầy đủ và chặt chẽ sẽ đảm bảo tranh chấp phát sinh được giải quyết nhanh chóng và hiệu quả. Tuy nhiên, không phải ai cũng có điều kiện để tìm hiểu sâu về nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Để tiết kiệm thời gian, giải pháp tốt nhất là nên sử dụng các điều khoản trọng tài mẫu.
    • Thứ hai, lựa chọn hình thức trọng tài phù hợp.  Khi soạn thảo điều khoản về trọng tài, các bên cần cân nhắc các điều kiện về tài chính, sự thuận tiện hay bản chất của tranh chấp sễ phát sinh để lựa chọn một hình thức trọng tài phù hợp. Trọng tài quy chế thích hợp với những tranh chấp phức tạp, hợp đồng có giá trị lớn còn trọng tài vụ việc thích hợp vói những tranh chấp đơn giản, cần giải quyết nhanh chóng và tiết kiệm chi phí.
    • Thứ ba, lựa chọn luật áp dụng cho nội dung vụ tranh chấp: Luật áp dụng hoàn toàn do các bên tự do lựa chọn. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội đồng trọng tài sẽ quyết định luật phù hợp nhất với quan hệ hợp đồng . Để lựa chọn luật phù hợp thì một yêu cầu quan trọng là luật áp dụng phải dễ tiếp cận, phải được sử dụng rộng rãi, phổ biến trong thương mại quốc tế và phù hợp với quan hệ thương mại cụ thể giữa các bên. Do vậy, khi quyết định chọn luật, các bên cần chủ động tìm hiểu để lường trước được các rủi ro và bất lợi có thể xảy ra.
    • Thứ tư, thỏa thuận trọng tài đơn giản và chính xác: Để đạt được tính khả thi hiệu quả, một điều khoản thỏa thuận trọng tài không nhất thiết phải dài và chi tiết. Hai nguyên tắc cơ bản mà bất kì người soạn thảo điều khoản trọng tài cũng nên biết là tính đơn giản và tính chính xác, cụ thể là đơn giản trong soạn thảo và chính xác khi tập hợp các nội dung để đưa vào điều khoản.
      Theo đó, điều khoản trọng tài nên quy định một cách khái quát tối đa các tranh chấp không chỉ liên quan đến việc thực hiện hợp đồng, mà còn cả những vấn đề về sự tồn tại ,hiệu lực của hợp đồng, vi phạm và chấm dứt hợp đồng và các hệ quả tài chính của hợp đồng
    • Thứ năm, tăng cường ý thức pháp luật cho các doanh nghiệp: Doanh nghiệp nên tìm hiểu kỹ hơn về các phương thức giải quyết tranh chấp như thương lượng,trung gian, hòa giải cũng như các phương thức tài phán như trọng tài, tòa án.
      Mở các lớp huấn luyện do các chuyên gia đầu ngành về trọng tài chủ trì để các doanh nghiệp có điều kiện giao lưu trao đổi, học hỏi kinh nghiệm về nghệ thuật đàm phán và xác lập thỏa thuận trọng tài.

IV. Kết luận

    Qua việc nghiên cứu về thỏa thuận trọng tài thương mại, chúng ta có thể khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của thỏa thuận trọng tài đối với phương thức trọng tài thương mại. Luật trọng tài thương mại ra đời không chỉ khắc phục những vướng mắc, bất cập của Pháp lệnh trọng tài 2003 mà còn tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng cho việc giải quyết các tranh chấp bằng phương thức trọng tài. Mặc dù vậy, luật trọng tài thương mại cũng không tránh khỏi những vấn đề trong quá trình thực thi, chính vì vậy các nhà làm luật cần tiếp tục hoàn thiện và có những hướng dẫn chi tiết, cụ thể hơn nữa về vấn đề này trong thời gian tới.




























Chat Zalo: 0902198579

Copyright © 2019 OPIC LAW All Right Reserved