1.1 Thi hành án dấn sự
Luật thi hành án dân sự Việt Nam là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự, văn phòng thừa phát lại với đương sự, cơ quan, tổ chức và cá nhân liên quan đến việc thi hành án dân sự, phát sinh trong quá trình thi hành án dân sự nhằm bảo đảm việc thi hành án dân sự có hiệu quả, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
1.2 Đặc điểm của thi hành án dân sự
Thứ nhất, THADS là việc thực hiện bản án, quyết định dân sự có hiệu lực pháp luật.
Thứ hai, THADS xuất phát và gắn liền với hoạt động xét xử của Tòa án, Trọng tài, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh.
Thứ ba, THADS mang tính chất độc lập nhưng có sự tham gia của nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức nên đã phát sinh nhiều mối quan hệ khác nhau.
Thứ tư, THADS do cơ quan thi hành án và tổ chức thừa phát lại thực hiện.
1.3 Nguyên tắc thỏa thuận THADS
Nguyên tắc thỏa thuận THADS được quy định tại Điều 6 LTHADS, theo đó, nội dung của nguyên tắc này xác định:
Khoản 1 Điều 6 LTHADS quy định:
"Đương sự có quyền thỏa thuận về việc thi hành án, nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Kết quả thi hành án theo thỏa thuận được công nhận.”
Theo đó, trong THADS các bên đương sự có thể thỏa thuận với nhau về việc thi hành án. Tuy nhiên, các đương sự cần phải đảm bảo hai nguyên tắc là không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Các đương sự có thể thỏa thuận với nhau hoặc với người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về thời gian, địa điểm, phương thức, nội dung thi hành án sao cho phù hợp với nhu cầu, lợi ích của chính mình, của bên kia và thậm chí của bên thứ ba. Mặc dù các đương sự có quyền quyết định nội dung thỏa thuận của mình, nhưng nội dung đó không được vi phạm điều cấm của pháp luật. Trong đó, điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Đồng thời, nội dung của thỏa thuận cũng không được trái với đạo đức xã hội, theo đó, đạo đức xã hội có thể hiểu là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Tuy nhiên, “đạo đức xã hội” là khái niệm quá trừu tượng, khó định lượng và nó luôn biến động về phạm vi và nội dung tuỳ thuộc vào từng giai đoạn phát triển của kinh tế - xã hội, nó còn tuỳ thuộc vào quan niệm, lối sống của mỗi người, mỗi tầng lớp, mỗi giai cấp và cũng phụ thuộc ít nhiều về vùng, miền. Vì vậy, với khái niệm trên cũng gây ít nhiều băn khoăn cho chấp hành viên khi chứng kiến việc thoả thuận của các đương sự trong thi hành án.
Ngoài ra, thỏa thuận THADS cũng cần phải xuất phát từ ý chí tự nguyện của các đương sự để đảm bảo được tính khách quan khi thi hành án và thỏa thuận này không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người thứ ba.
Theo Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, thỏa thuận thi hành án được thực hiện ở hai giai đoạn, đó là: Giai đoạn trước khi có quyết định thi hành án của cơ quan THADS và giai đoạn sau khi có quyết định thi hành án.
a) Giai đoạn trước khi quyết định thi hành án.
Pháp luật dân sự nói chung và pháp luật THADS nói riêng luôn tôn trọng sự tự định đoạt và thỏa thuận của các đương sự. Nó xuất phát từ việc các quan hệ dân sự được xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt trên cơ sở tự nguyện, tự thỏa thuận, tự chịu trách nhiệm và bình đẳng giữa các chủ thể.
Ở giai đoạn trước khi có quyết định thi hành án của cơ quan THADS, tức là đương sự chưa yêu cầu thi hành án hoặc đã yêu cầu nhưng cơ quan THADS chưa ra quyết định thi hành án, thì các bên đã thỏa thuận với nhau về việc thi hành án. Theo khoản 1 Điều 5 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của LTHADS thì việc thỏa thuận thi hành án trước khi yêu cầu thi hành án hoặc đã yêu cầu thi hành án nhưng cơ quan, tổ chức thi hành án chưa ra quyết định thi hành án được lập thành văn bản nêu rõ thời gian, địa điểm, nội dung thỏa thuận, có chữ ký hoặc điểm chỉ của các bên tham gia thỏa thuận. Đương sự có nghĩa vụ tự thực hiện đúng nội dung đã thỏa thuận. Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ đã thỏa thuận mà thời hiệu yêu cầu thi hành án vẫn còn thì bên có quyền được yêu cầu thi hành án đối với phần nghĩa vụ chưa được thi hành theo nội dung bản án, quyết định.
Như vậy, theo quy định trên thì việc tự thỏa thuận của các đương sự trước khi yêu cầu thi hành án hoặc đã yêu cầu thi hành án nhưng cơ quan, tổ chức thi hành án chưa ra quyết định thi hành án hoàn toàn do các đương sự tự quyết định và có nghĩa vụ tự thực hiện theo đúng nội dung đã thỏa thuận. Thỏa thuận THADS của các bên cần phải nêu rõ thời gian, địa điểm, nội dung thỏa thuận và có xác nhận của các bên tham gia thỏa thuận để nhằm xác định tính rõ ràng và đồng thời có ý nghĩa chứng cứ, chứng minh sự tồn tại của thỏa thuận thi hành án này.
b) Giai đoạn sau khi có quyết định thi hành án
Giai đoạn sau khi có quyết định thi hành án tức là đương sự đã có đơn yêu cầu thi hành án, cơ quan THADS đã ra quyết định thi hàn án và tổ chức thi hành án. Theo đó, khoản 2 Điều 5 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định trường hợp cơ quan, tổ chức THADS đã ra quyết định thi hành án, đương sự vẫn có quyền tự thỏa thuận. Tương tự như giai đoạn thỏa thuận trước có quyết định thi hành án, giai đoạn thỏa thuận sau khi có quyết định thi hành án cũng phải thể hiện rõ thời gian, địa điểm, nội dung thỏa thuận và có chữ ký hoặc điểm chỉ của các bên tham gia. Ngoài gia, pháp luật THADS còn bổ sung thêm quy định về thời hạn thực hiện thỏa thuận, hậu quả pháp lý đối với việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nội dung đã thỏa thuận. Nếu các bên không tự nguyện thực hiện theo đúng nội dung đã thỏa thuận thì cơ quan THADS căn cứ nội dung quyết định thi hành án và kết quả đã thi hành theo thỏa thuận, đề nghị của đương sự để tổ chức thi hành, trừ trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 LTHADS hợp nhất.
Trong trường hợp đương sự thỏa thuận về việc không yêu cầu cơ quan THADS thi hành một phần hoặc toàn bộ quyết định thi hành án thì Thủ trưởng cơ quan THADS, trưởng văn phòng thừa phát lại ra quyết định đình chỉ thi hành án đối với nội dung thỏa thuận không yêu cầu thi hành theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 LTHADS. Tuy nhiên, đối với các thỏa thuận vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội, không đúng với thực tế, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba hoặc nhằm trốn tránh phí thi hành án thì Thủ trưởng cơ quan THADS sẽ không ra quyết định đình chỉ thi hành án theo điểm c khoản 1 Điều 50 LTHADS. Ngoài ra, nếu thỏa thuận này được thực hiện sau khi tài sản đã được bán hoặc giao cho người khác nhận để thi hành án thì phải được sự đồng ý của người mua được tài sản hoặc người nhận tài sản để thi hành án, quy định như vậy nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của người mua hoặc người được nhận tài sản, hạn chế xảy ra tranh chấp không đáng có.
Theo khoản 4 Điều 5 Ngị định số 62/2015/NĐ-CP, đối với thỏa thuận xảy ra sau khi có quyết định thi hành án, đương sự có quyền yêu cầu chấp hành viên chứng kiến việc thỏa thuận. Chấp hành viên có trách nhiệm chứng kiến và ký tên vào văn bản thỏa thuận đó. Trường hợp thỏa thuận vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội, không đúng với thực tế, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba hoặc nhằm trốn tránh phí thi hành án thì Chấp hành viên có quyền từ chối nhưng phải lập biên bản và nêu rõ lý do.
Ngoài ra, trong trường hợp đương sự yêu cầu chấp hành viên chứng kiến việc thỏa thuận ngoài trụ sở cơ quan THADS mà phát sinh chi phí thì phải thanh toán các chi phí hợp lý cho cơ quan THADS.
    Theo Điều 5 Nghị định
62/2015/NĐ-CP, đối với trường hợp đương sự thỏa thuận trước khi yêu cầu thi
hành án hoặc đã yêu cầu nhưng cơ quan THADS chưa ra quyết định thi hành án thì
thỏa thuận đó phải lập thành văn bản nêu rõ thời gian, địa điểm, nội dung thỏa thuận,
có chữ ký hoặc điểm chỉ của các bên tham gia thỏa thuận. Đương sự có nghĩa vụ
tự thực hiện đúng nội dung đã thỏa thuận… Trường hợp đương sự đã có yêu cầu cơ
quan THADS tổ chức thi hành án, đương sự vẫn có thể thực hiện việc thỏa thuận.
Đồng thời, Điều 5 Nghị định 62/2015/NĐ-CP cũng quy định rằng thỏa thuận này
phải thể hiện rõ thời gian, địa điểm, nội dung thỏa thuận, thời hạn thực hiện
thỏa thuận, hậu quả pháp lý đối với việc không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nội dung đã thỏa thuận, có chữ ký hoặc điểm chỉ của các bên tham gia.
Trường hợp đương sự chưa yêu cầu thi hành án hoặc đã yêu cầu thi hành án nhưng cơ quan, tổ chức thi hành án chưa ra quyết định thi hành án thì theo khoản 1 Điều 5 Nghị định 62/2015/NĐ-CP đương sự có quyền tự quyết định việc thỏa thuận thi hành án. Thêm vào đó, đương sự khi tự thỏa thuận thi hành án có nghĩa vụ tự thực hiện đúng nội dung đã thỏa thuận.
Trường hợp sau khi có quyết định thi hành án, các đương sự vẫn có quyền tự thỏa thuận việc thi hành án. Theo đó, các bên có thể yêu cầu chấp hành viên chứng kiến thỏa thuận và ký tên vào văn bản thỏa thuận của các bên đương sự. Tuy nhiên, trong quá trình chứng kiến việc thỏa thuận thi hành án giữa các đương sự, nếu chấp hành viên phát hiện thỏa thuận đó vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội, không đúng với thực tế, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba hoặc nhằm trốn tránh phí thi hành án thì chấp hành viên có quyền từ chối việc chứng kiến việc thỏa thuận về thi hành án. Tuy nhiên, trường hợp từ chối việc chứng kiến thì chấp hành viên phải lập biên bản và nêu rõ lý do vì sao từ chối (khoản 4 Điều 5 Nghị định 62/2015/NĐ-CP).
Về nguyên tắc, kết quả thoả thuận của các đương sự nếu không trái đạo đức xã hội, không vi phạm điều cấm của pháp luật và không làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời thứ ba thì được ghi nhận và có giá trị pháp lý đối với các bên đương sự trong thi hành án. Do đó, việc thi hành án sẽ được thực hiện theo sự thỏa thuận của các đương sự và kết quả thoả thuận thi hành án theo được công nhận. Tuy nhiên, không phải lúc nào việc thi hành án theo thỏa thuận cũng được diễn ra suôn sẻ, trên thực tế vẫn xuất hiện một số trường hợp mặc dù các đương sự đã thỏa thuận về việc thi hành án với nhau nhưng bên còn lại vẫn không thực hiện nghĩa vụ của mình theo thỏa thuận. Vì vậy, pháp luật THADS có quy định về tường hợp đương sự không thực hiện đúng thỏa thuận thì có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thi hành phần nghĩa vụ chưa được thi hành theo nội dung bản án, quyết định.
Hoạt động THADS trên thực tế đã cho thấy hiệu quả đáng kể của biện pháp thỏa thuận THADS. Trong quá trình giải quyết hồ sơ thi hành án, cơ quan, tổ chức THADS đảm bảo và tạo mọi điều kiện cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Kế thừa nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận của pháp luật dân sự, pháp luật THADS cũng có những quy định về quyền thỏa thuận thi hành án của các đương sự.
Thông qua việc thỏa thuận thi hành án, hoạt động THADS được giải quyết nhanh gọn, rút ngắn thời gian, đỡ tốn tốn kém về công sức, tiền bạc để tổ chức thi hành án của cơ quan THADS và của chính các đương sự. Mặc dù việc thỏa thuận trong thi hành án có nhiều ưu điểm giúp cho hoạt động thi hành án được thực hiện nhanh chóng hơn, nhưng nó vẫn còn tồn tại một số bất cập, như:
Thứ nhất, trên thực tế có nhiều trường hợp sau khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, gia đình các bên đương sự tự thỏa thuận trả tiền bồi thường cho nhau đến chính quyền địa phương, cơ quan THADS không chứng kiến, công nhận vì nhiều lí do khác nhau như thẩm quyền xác nhận hoặc chưa có đơn yêu cầu… Hoặc có trường hợp các bên đương sự tự thỏa thuận trả tiền bồi thường cho nhau nhưng không thông qua sự chứng kiến của cơ quan THADS cũng như chính quyền địa phương. Đến khi cần xét giảm án, đặc xá, xóa án tính thì các cơ quan Trại giam, Tòa án yêu cầu phải có xác nhận của cơ quan THADS về việc thỏa thuận này để thể hiện việc THADS thì mới thực hiện xét giảm án, đặc xá, xóa án tính… Lúc này, các đương sự lại tìm đến cơ quan thi hành án để xin xác nhận nhưng phía cơ quan THADS cũng không thực hiện việc chứng kiến hay xác nhận kết quả thỏa thuận cho các đương sự.
Thứ hai, LTHADS quy định rằng đương sự có quyền thỏa thuận về việc thi hành án, nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội thì kết quả thỏa thuận được công nhận. Tuy nhiên trên thực tế, mặc dù thỏa thuận thi hành án giữa các đương sự không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội thì kết quả thỏa thuận vẫn không thể được công nhận. Ví dụ, trường hợp Tòa án đã tuyên bố ly hôn và ra quyết định chia tài sản chung vợ chồng nhưng sau đó cả vợ và chồng không muốn chia tài sản mà đã thỏa thuận với nhau rằng sẽ không ly hôn nữa mà tiếp tục chung sống với nhau. Như vậy, trong trường hợp này thỏa thuận không ly hôn để không phải chia tài sản không thể thực hiện được và cũng sẽ không được công nhận. Việc quy định “kết quả thi hành án theo thoả thuận được công nhận” của LTHADS hiện nay vẫn còn những hạn chế nhất định, pháp luật cần có quy định cụ thể hơn để hướng dẫn và giải thích về việc khi nào, như thế nào kết quả thi hành án theo thoả thuận mới được công nhận. Ngoài ra, pháp luật cũng chưa có quy định cụ thể trong trường hợp nếu các bên không thực hiện theo đúng nghĩa vụ đã thỏa thuận hoặc chỉ thực hiện một phần nghĩa vụ đã thỏa thuận thì các bên sẽ buộc thực hiện theo thỏa thuận hay theo bản án, quyết định dân sự?
Thứ ba, LTHADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 vẫn chưa công nhận người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là đương sự. Trong khi đó, Luật Tố tụng dân sự 2015 quy định thì đương sự trong vụ án dân sự bao gồm cả người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Quy định như vậy là hợp lý bởi những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Vì vậy, nếu không quy định người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là đương sự trong LTHADS thì họ sẽ không được thực hiện quyền yêu cầu THADS và thỏa thuận THADS của đương sự, mặc dù chính những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng có thể là người có quyền và nghĩa vụ bị ảnh hưởng trực tiếp.
    Thứ tư, tồn tại trường hợp mặc dù các đương sự đã tiến hành thỏa thuận với nhau, có văn bản ghi nhận và sự chứng kiến của cán bộ THADS nhưng họ vẫn không thực hiện theo đúng thỏa thuận đã đưa ra. Có những trường hợp các đương sự trong THADS tuy đã thỏa thuận và đi đến thống nhất với nhau về việc thi hành án nhưng cuối cùng các đương sự lại không tuân thủ theo đúng những gì mà mình đã thỏa thuận. Việc làm này không những làm ảnh hưởng tới thời gian, công sức và thậm chí là tiền bạc của các đương sự, đồng thời cũng gây ra những cản trở không nhỏ cho cơ quan THADS trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
    Việc duy trì và hoàn thiện vấn
đề thỏa thuận THADS giữa các đương sự trong điều kiện hiện nay có ý nghĩa xã
hội sâu sắc. Ghi nhận sự thỏa thuận THADS giữa các đương sự là một hoạt động
quan trọng nhằm góp phần duy trì truyền thống đoàn kết dân tộc, tạo nên nội lực
phát triển của đời sống kinh tế, xã hội trước sự tồn tại nhiều tiêu cực của nền
kinh tế thị trường. Quy định này cũng phù hợp với xu hướng chung của nhiều nước
trên thế giới luôn chú trọng sự thỏa thuận trong việc giải quyết các tranh
chấp.
 
  
 Copyright © 2019 OPIC LAW All Right Reserved
Những điểm mới trong luật tạm giữ, tạm giam
Tháng Ba 22, 2019