Năm 2015 chị A và anh B đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong thời kỳ hôn nhân, do mâu thuẫn và không còn tình cảm nên anh A và chị B đã sống ly thân. Chị A có quan hệ tình cảm với anh C. Tháng 10/2018 chị A sinh một cháu trai (tên gọi ở nhà là cháu D) đến nay vẫn chưa đăng ký khai sinh cho cháu.
Tháng 5/2019 chị A và anh B ly hôn theo thủ tục thuận tình ly hôn. Sau đó, anh C biết cháu D là con của mình và muốn nhận cháu là con, chị A thừa nhận cháu D là con của anh C, anh B biết và không phản đối việc anh C nhận cháu D là con.
Trường hợp này, việc xác định cha con được xác định như thế nào?
Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;
Luật Hộ tịch năm
2014; 
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Thông tư 15/2015/TT-BTP
Quy định chi tiết một số điều Luật Hộ tịch và nghị định 123/2015/NĐ-CP.
Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về các căn cứ để xác định cha mẹ con, cụ thể bao gồm các căn cứ sau đây:
Điều 101 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về Thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con:
“1. Cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền xác
định cha, mẹ, con theo quy định của pháp luật về hộ tịch trong trường hợp không
có tranh chấp.
2. Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc xác định
cha, mẹ, con trong trường hợp có tranh chấp hoặc người được yêu cầu xác định là
cha, mẹ, con đã chết và trường hợp quy định tại Điều 92 của Luật này.
Quyết định của Tòa án về xác định cha, mẹ, con phải được gửi cho cơ quan đăng ký hộ tịch để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch; các bên trong quan hệ xác định cha, mẹ, con; cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự”.
Thứ nhất: Căn cứ để xác định cha con. Cháu D được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân giữa chị A và anh B nên cháu D được xác định là con chung của chị A và anh B.
Thứ hai: Thẩm quyền xác định cha con. Theo tình huống: Anh C nhận cháu D là con của mình (phải có tài liệu chứng cứ kèm theo như kết quả giám định ADN), chị A thừa nhận cháu D là con của anh C, anh B cũng không có phản đối và nhận cháu C là con của mình. Có thể thấy ở tình huống này, có sự đồng thuận của các bên với việc xác định cha con.
Tuy nhiên, khi anh C yêu cầu xác định cháu D là
con của mình đã phát sinh mâu thuẫn giữa việc cháu D được pháp luật công nhận
và bảo vệ cháu là con của anh B do được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân giữa chị
A và anh B và việc cháu D là con trên thực tế của anh C. Nay anh C muốn thay
đổi vấn đề pháp lý đang được pháp luật bảo vệ đã xảy ra một vấn đề tranh chấp
giữa con pháp lý và con thực tế. Yêu cầu này làm thay đổi quyền và nghĩa vụ của
các bên trong quan hệ.
Vì vậy, để giải quyết yêu cầu, Tòa án nhân dân là cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu của anh C. Căn cứ vào quy định tại Điều 28 và Điều 35 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015. Thì việc xác định cha con thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân. Cụ thể, Tòa án nhân dân cấp huyện của bị đơn là chị A là nơi có thẩm quyền giải quyết yêu cầu xác định cha con của anh C.
Hồ sơ pháp lý bao gồm: 
 
  
 Copyright © 2019 OPIC LAW All Right Reserved
Những điểm mới trong luật tạm giữ, tạm giam
Tháng Ba 22, 2019