Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Tòa án nhân dân tố i cao.
Nguồn của án lệ:
Quyết định Giám đốc thẩm phán số 27/2010/DS-GĐT ngày 08-7-2010 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về nhiệm vụ “ Tranh chấp đòi lại tài sản” tại tỉnh Sóc Trăng giữa nguyên đạ bà Nguyễn Thị Th ả nh với thiết bị là ông Nguyễn Văn Tám; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Yêm.
Loại bỏ nội dung của dự án:
Trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã bỏ tiền ra để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhờ người ở trong nước tên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hộ mình, khi giải quyết tranh chấp thì Tòa án phải xem xét và tính công sức bảo quản, giữ móng, tôn tạo làm tăng giá trị quyền sử dụng đất cho người đứng tên hộ; trường hợp không xác định được chính xác công sức của người đó là cần xác định người thực trả tiền để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và người đứn g tên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng g đất hộ có công sức ngang nhau để chia phần giá trị chênh lệch tăng thêm để tiền gốc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất cấm đầu.
Quy định của pháp luật liên quan đến luật:
Điều 137 và Điều 235 của Bộ luật dân sự năm 2005 .
Từ khóa của dự đoán:
“Giao dịch dân sự vô hiệu”; “Đòi lại tài sản”; “Căn cứ xác lập quyền sở hữu”; “Xác lập quyền sở hữu đối với lợi tức”; “Người Việt Nam địn h cư ở nước ngoài”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn vị sự kiện ngày 24-01-2005, tờ khai ngày 07-02-2005 và quá trình giải quyết vấn đề của bà Nguyễn Thị Thảnh là nguyên đơn trình bày:
Bà Thảnh là Việt kiều ở Hà Lan về thăm thân nhân tại Việt Nam và có ý định chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nên ngày 10-8-1993, bà có nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông Hêng Tính, bà Lý Thị Sà Quên tích diện 7 .595, 7 m 2 đất tại Phường 7, thị xã Sóc Trăng với giá 21,99 chỉ vàng. Bà là người trực tiếp giao dịch, đồng ý thuận lợi chuyển nhượng và trả tiền, vàng cho vợ chồng ông Hùng Tính. Mục đích của bà Thảnh là chuyển nhượng đất để giao cho em lòng của bà là ông Nguyễn Văn Tám và bà Nguyễn Thị Chính Em canh nuôi cha mẹ của bà và ông Tám. Do bà là người Việt Nam định cư ở nước ngoài nên bà để cho ông tám đứng tên trong giấy tờ sang nhượng. Đồng thời, bà Thảnh xuất trình “Tờ sang nhượng đất ruộng” lập ngày 10-8-1993 được UBND xã An Hiệp xác nhận. Sau khi nhận chuyển nhượng bà để cho vợ chồng ông Tám cánh tác, nhưng năm 2004, không được bà đ ồ ng ý , ông Tám đã chuyển nhượng toàn bộ diện tích 7.595,7m 2 đất trên cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Minh Châu với quyền giá trị sử dụng đất là 1.260.000.000 đồng. Vì vậy, bà yêu cầu ông Tám tr ả lại số tiền thu được từ việc chuyển nhượng đất của bà.
Ông Nguyễn Văn Tám được trình bày:
Diện tích 7.595,7m 2 đất mà bà Thảnh tranh chấp là đất do vợ chồng ông là người bỏ tiền, vàng ra sang nhượng lại của vợ chồng ông Hêng Tính, ông là người đứng tên trong “Tờ sang nhượng đất” lập ngày 8-10-1993. Quyền sang nhượng này không được xác nhận bởi chính quyền địa phương. Nhưng sau đó, ông và vợ chồng ông Hêng Tính còn ký bản hợp đồng và đơn xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất cùng ngày 8-11-1993, các văn bản này được UBND xã An Hiệp và UBND huyện Mỹ xác nhận Tú đồng ý chọn chuyển nhượng. Sau khi chuyển nhượng ông đã đăng ký, kê khai được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 28-5-1994. Đến đó, năm 2004, ông chuyển nhượng toàn bộ đất trên cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Minh Châu với giá trị là 1.260.000.000 đồng. Ông cho rằng “Tờ sang nhượng đất ruộng” lập ngày 10-8-1993, có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã An Hiệp do bà Thảnh xuất trình là giả vì theo Bản kết thúc l ận giám đốc số 2784/C21 ( P7) ngày 25-10-2005 của Viện Khoa học Hì nh sự Tổng cảnh địa phương thì không phải chữ ký của ông trong hoàn sang đất ruộng làm bà Thảnh xuất trình. Vì vậy, anh không đồng ý theo yêu cầu khởi động của bà Thảnh.
Bà Nguyễn Thị Yêm (vợ của ông Tám) là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: Năm 1993 vợ chồng bà có chuyển nhượng đất của ông Hêng Tính. Khi làm thủ tục chuyển nhượng bà không gia nhưng bà có tặng tiền, vàng cho ông Tám trả cho vợ chồng ông Hêng Tính nên bà cũng không châp nhận theo yêu cầu của bà Thảnh.
Vợ chồng ông Hêng Tính, bà Lý Thị Sà Quênh (tên khác là Lý Thị Sà Vênh) là người chuyển nhượng đất đều khẳng định bà Thảnh trực tiếp chấp nhận chuyển nhượng, trực tiếp trả 21,99 chỉ vàng cho ông, bà và bà Thảnh để cho ông Tám đứng tên hộ trong chiều sang nhượng đất ru rộng lập ngày 10-8-1993; chữ ký trong sang nhượng đất ruộng do bà thảnh xuất trình đúng là chữ ký của ông, bà.
Tại Bản án dân dân sơ thẩm số 04/2006/DS-ST ngày 28-4-2006, Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng quyết định:
Chấp nhận một phần yêu cầu của bà Nguyễn Thị Thảnh về việc Đòi lại tiền chuyển nhượng đất.
Lực vợ chồng ông Nguyễn Văn Tám, bà Nguyễn Thị Yêm phải trách nhiệm hoàn tr ả cho bà Nguyễn Thị Thảnh 630.000.000 đồng.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm vẫn quyết định về án phí, chi phí giám sát và tuyên bố quyền phản biện cho các quy định pháp luật.
Ngày 10-5-2006, ông Nguyễn Văn Tám phản xạ cho rằng bà Thảnh không phải là người có quyề n sử dụng ph ầu n đất mà ông đã chuy có thể cung cấp cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Minh Châu nh ư ng Tòa án cấp sơ thẩm ông thanh toán cho bà Thảnh 630.000.000 đồng là sai.
Ngày 12-5-2006, ông Nguyễn Hữu Phòng (đại diện cho bà Thảnh) kháng cáo đề ngh ị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử pháp luật ông Tám tr ả lại toàn bộ số tiền mà ông Tám đã chuyển nhượng đất là 1.260. 000.000 đồng cho bà Thảnh.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 334/2006/DS-PT ngày 25-8-2006, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh quyết định: bác yêu cầu phản hồi của nguyên đơn và device, edit Bản sơ đồ xác minh như sau:
Chấp nhận một phần yêu cầu của bà Nguyễn Thị Thảnh về việc Đòi lại tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Buộc ông Nguyễn Văn Tám, bà Nguyễn Thị Yêm có trách nhiệm hoàn trả cho bà Nguyễn Thị Thảnh số tiền 27.047.700 đồng tương đương 21,99 chỉ vàng 24k.
Lực vợ chồng Nguyễn Văn Tám và bà Nguyễn Thị Yêm phải hoàn lại số tiền 1.232.266.860 đồng để hát công việc Nhà nước.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm vẫn quyết định về án phí.
Sau xét xử phúc thẩm, ông Nguyễn Văn Tám giải phóng bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.
Tại Quyết định số 449/2009/KN-DS ngày 21-8-2009, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án dân sự Phúc thẩm số 334/2006/DS-PT ngày 25-8-2006 Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy bỏ Bản án phúc thẩm nêu trên và hủy bỏ Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2006/DS-ST ngày 28-4-2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xử lý sơ bộ đã được xác minh lại theo đúng quy định của pháp luật, đã xác định:
“Bà N g uyễn Thị Thảnh khởi kiện Đòi lại tài sản đối với ông Nguyễn Văn Tám và cho rằng bà là người Việt Nam định cư ở nước ngoài nên bà có nhờ ông Tám (em của bà) đứng tên nhận chuyển đất của vợ chồng Anh Hùng Tám Tính dành cho bà nhưng sau đó ông đã chuyển nhượng đất của bà cho người khác.
Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định ông đứng ch ỉ tên nhận chuyển nhượng đất của vợ chồng ông Hêng Tính chăm sóc cho bà Thảnh là căn cứ.
Do bà Thảnh là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, nên bà Thảnh không được giao đất mà chỉ được trả lại phần giá trị đầu tư tiền chuyển nhượng đất.
Đối lập với chênh lệch giá trị đất, thời điểm xét xử sơ thẩm và xét nghiệm thẩm định là điểm thi hành Bộ luật dân sự năm 2005, không có quy định buộc phải tịch thu công công. ông Tám cùng bị hư hỏng . Tòa án cấp sơ thẩm không buộc ông Tám Trôi số tiền chênh lệch giá trị đất để hát công là có căn cứ nhưng không g cưỡng bức ông Tám trả cho bà Thảnh giá trị đầu tư ban đầu là sai. Tòa án cấp phúc thẩm không được đưa ra căn cứ luật pháp nhưng đã buộc ông Tám an toàn bộ số tiền chênh lệch (1.232.226.860 đồng) để hát công trình Nhà nước là quy định pháp luật không đúng”.
Tại giám đốc tòa án, đại diện Viện kiểm tra nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận phiên bản đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao cấp Bản án thẩm định nêu tên và aborde Bản án dân số thẩm định số 04/2006/DS-ST ngày 28-4-2006 của Tòa án nhân dân t ỉ nh Sóc Trăng; giao hồ sơ thẩm tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xử lý sơ bộ đã được xác minh lại theo đúng quy định của pháp luật.
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã xác định:
Bà Nguyễn Thị Thảnh khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Văn Tám trả lại cho bà 1.260.000.000 đồng vì cho rằng bà là người trực tiếp giao dịch, trả tiền nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông Hùng Tính 7.595,7m 2 đất, nhưng vì bà là người Việt Nam Tám định cư ở nước ngoài nên nhờ ông (em của bà) đứng tên, nhưng không được bà đồng ý ôn g Tám đã chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất cho Công ty TNHH Minh Châu đ để
nhận 1.260 .000.000 đồng.
Ông Tám cho rằng ông là người đồng ý chuyển nhượng đất và tr ả tiền cho ông Hùng Tính, nên giấy tờ chuyển nhượng đất ông đứng tên. Sau khi nhận chuyển nhượng ông trực tiếp quản lý sử dụng, đăng ký kê khai, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và khi ông chuyển nhượng cho Công ty TNHH Minh Châu được chính quyền cho phép, nên ông không chấp nhận yêu cầu request của bà Thảnh.
Tuy nhiên, quá trình giải quyết vấn đề vợ chồng Tám có nhiều lời khai khẳng định về s ố tiền, vàng đã trả cho ông Hùng Tính và ông cũng không chứng minh được nguồn gốc tiền vàng mà ông cho rằng đã trả cho ông Tính.
Trong khi đó vợ chồng ông Tính, bà ngoại khẳn g định chỉ đồng ý chuyển nhượng đất và nhận vàng của bà Thảnh còn việc viết giấy chuyển nhượng đất đứng tên ông Tám là theo yêu cầu của bà Thảnh, vì bà Thảnh đang định cư ở nước ngoài.
Theo lời khai của cụ Thái Thị Ba, ông Nguyễn Phước Hoàng, bà Nguyễn Thị Chính Em (là mẹ và anh em ruột của bà Thảnh, ông Tám) th ì bà Thảnh giao dịch , trả tiền chuyển nhượng đất cho vợ chồng ông Tính, còn ông Tám ch ỉ là người đứng tên hộ.
Tổng hợp các bằng chứng nêu trên có cơ sở xác định Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm bằng chứng xác định bà Thảnh là người bỏ toàn bộ số tiền là 21,99 chỉ vàng để nhận chuyển tích tích trên, còn ông Tám ch ỉ là người đứng tên. Do ông Tám đã chuyển nhượng đất trên cho Công ty TNHH Minh Châu và bà Thảnh chỉ yêu cầu ông Tám trả lại số tiền đã chuyển nhượng là 1.260. 00 0.000 đồng nên Tòa án cấp sơ thẩm, Phúc thẩm thụ lý giải quyết là đúng quy định của pháp luật.
Tuy bà Thảnh là người bỏ 21,99 ch ỉ vàng để chuyển nhượng đất (tương đương khoảng 27.047.700 đồng). Nhưng giấy tiền chuyển nhượng tên ông Tám và sau khi nhận chuyển nhượng ông Tám quản lý đất, sau đó chuy ể n nhượng cho người khác. Như vậy, lẽ ra phải xác định ông Tám có công sức trong công việc quản lý, giữ gìn , tôn tạo làm tăng giá tr ị đất nên phải xác định số tiền trên (sau khi trừ tiền gốc tương đương 21,99 chỉ vàng của bà Thảnh) là lợi nhuận chung của bà Thảnh và ông Tám. Đồng thời xác định sức mạnh của ông Tám để chia cho ông Tám một phần tương ứng với sức mạnh của ông mới đúng và đảm bảo quyền lợi của các đương sự (Trường hợp không xác định chính xác công sức của ông Tám thì phải xác định bà Thảnh, ông Tám có sức ngang nhau để chia).
Tòa án cấp sơ thẩm công nhận bà Thảnh, ông Tám mỗi người có quyền sở hữu 1/2 số tiền trên nhưng không trích trả cho bà Thảnh số tương ứng với 21,99 chỉ vàng là không đúng.
Tòa án cấp phúc thẩm chỉ công nhận bà Thảnh có quyền sở hữu số tiền tương ứng với 21,99 chỉ vàng, còn lợi nhuận là số tiền còn lại tịch thu sung công nhà nước là sai với quy định của Bộ luật dân sự sự kiện năm 2005, không đảm bảo quyền lợi của các sự kiện.
Ngoài ra, bà Thảnh khởi động yêu cầu ông Tám trả cho bà 1.260.000.000 đồng là số tiền ông Tám chuyển nhượng giá t rị quyền
sử dụng 7.595,7m 2
đất, mà không tranh chấp quyền sử dụng đất, còn ông Tám cho số tiền trên là của ông. Như vậy, các mức độ tranh chấp quyền sở hữu tài sản là số tiền nêu trên. Nhưng Tòa án cấp sơ cấp và Tòa án cấp phúc thẩm được xác minh theo định luật pháp là “Tranh chấp đòi lại tài sản” là không chính xác.
B ở i các lẽ trên, căn cứ pháo 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật pháp tụng dân sự ;
QUYẾT ĐỊNH
1- Tòa Phúc thẩm Tòa Phúc thẩm số 334/2006/DSPT ngày 25-8-2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2006/ DS-ST ngày 28-4-2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng về nhiệm vụ tranh chấp đòi lại tài sản giữa đơn vị là bà Nguyễn Thị Th ả nh với thiết bị đơn là ông Nguyễn Văn Tám; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Yêm.
2- Giao hồ sơ án án cho Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng để xét xử sơ thẩm lại tính đúng đắn của quy định pháp luật.
NỘI DUNG ÁN LỆ
“Tuy bà Thảnh là người bỏ 21,99 chỉ vàng để chuyển nhượng đất (tương đương khoảng 27.047.700 đồng). Nhưng giấy tiền chuyển nhượng tên ông Tám và sau khi nhận ch u yển nhượng ông Tám quản lý đất, sau đó chuyển nhượng cho người khác. Như vậy, tôi sẽ ra phải xác định ông Tám có công sức trong công việc bảo quản, giữ móng, tôn tạo làm tăng giá trị đất nên phải xác định số tiền trên (sau khi trừ tiền gốc tương thích 21,99 chỉ vàng của bà Thảnh) là lợi nhuận chung của bà Thảnh và ông. Đồng thời xác định sức mạnh của ông Tám để chia cho ông Tám một phần tương ứng với sức mạnh của ông mới đúng và đảm bảo q u yền lợi của các đương sự (Trường hợp không xác định được chính xác sức mạnh của ông Tám thì phải xác định bà Thảnh, ông Tám có sức ngang nhau để chia).”
Copyright © 2019 OPIC LAW All Right Reserved
Những điểm mới trong luật tạm giữ, tạm giam
Tháng Ba 22, 2019