TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN X THÀNH PHỐ HCM ---------------------- Số: 56/2016/DS-ST Ngày: 02/02/2016 Về vụ án: “Tranh chấp quyền sử dụng đất ” |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ----------------------------------- |
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN X - THÀNH PHỐ HCM
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: 1. Bà Lê Thị Mỹ K
Các Hội thẩm nhân dân: 2. Bà Đoàn Thị Ngọc D
3. Ông Đỗ Văn V
Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Ngô Thị Hoàng T cán bộ Tòa án nhân dân Quận X, Thành phố HCM.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận X, Thành phố HCM tham gia phiên tòa: Bà Lê Thị Kim Q – Kiểm sát viên.
Ngày 02 tháng 02 năm 2016, tại Phòng xử án trụ sở Tòa án nhân dân Quận X, Thành phố HCM xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý Số: 68/2015/TLST–DS ngày 12 tháng 3 năm 2015 về “V/v tranh chấp quyền sử dụng đất”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử Số: 478/2015/QĐST-DS ngày 31 tháng 12 năm 2015 và Quyết định hoãn phiên tòa Số: 15/2015/QĐST-DS ngày 21 tháng 01 năm 2016, giữa các đương sự:
Nguyên đơn:
Ông NĐ_Phạm Ngọc Dinh, sinh năm 1982;
Địa chỉ cư trú: 11/1 Tổ 54, Khu phố 4, phường TCH, Quận X, Thành phố HCM. (Có mặt)
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Trần Quốc Dủ, sinh năm 1983, là người đại diện theo ủy quyền;(Theo Giấy ủy quyền lập ngày 01/02/2016 tại Văn phòng Công chứng Quận X, Thành phố HCM). (Có mặt).
Bị đơn:
Ông BĐ_Trịnh Văn Minh, sinh năm 1942; (Có mặt).
Địa chỉ cư trú: 10/6 Tổ 54, Khu phố 4, phường TCH, Quận X, Thành phố HCM; (Có
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Trịnh Văn Tuấn, sinh năm 1966, là người đại diện theo ủy quyền;
(Theo Giấy ủy quyền lập ngày 18/6/2015 tại Văn phòng Công chứng Nhà Rồng, Thành phố HCM). (Có mặt).
- Trong đơn khởi kiện, các biên bản trong quá trình giải quyết vụ án thì nguyên đơn – ông NĐ_Phạm Ngọc Dinh trình bày:
Ông yêu cầu ông BĐ_Trịnh Văn Minh phải để ông sử dụng lối đi qua đất của ông BĐ_Minh để ra đường công cộng. Bởi vì, mẹ ruột của ông là bà Trịnh Thị Ghê có cho ông sử dụng đất tại thửa 1740, tờ bản đồ số 1, diện tích 2848m2, xác định tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Số: 00776/QSDĐ/Q12/1998 do Ủy ban nhân dân Quận X, Thành phố HCM cấp ngày 14/12/1998 cho bà Ghê. Bà Ghê đã ký Hợp đồng tặng cho phần đất này cho ông tại Phòng Công chứng Số 5, Thành phố HCM. Để ra đường công cộng, từ trước năm 1975, mẹ ông - bà Ghê đã sử dụng con đường mòn băng qua đất của ông BĐ_Minh. Theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở (Hồ sơ gố số: 15156 ngày 31/12/2003) do Ủy ban nhân dân Quận X, Thành phố HCM cấp cho ba mẹ ông Phạm Công Hiển – bà Trịnh Thị Ghê có thể hiện đường đi nội bộ vào gia đình ông. Đến năm 2009, ông BĐ_Minh làm hàng rào bít lối đi này và ông đã phản đối. Vì vậy, ông khởi kiện yêu cầu ông BĐ_Minh phải để cho ông sử dụng lối đi qua đất của ông BĐ_Minh để đi ra đường công cộng. Trước đây, ông yêu cầu ông BĐ_Trịnh Văn Minh phải cho ông được sử dụng một phần đất thuộc một phần thửa 1858, tờ 1, diện tích 50,5m2, tương ứng với một phần vị trí số 6 của Bản đồ hiện trạng vị trí do Trung tâm đo đạc bản đồ Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố HCM lập ngày 28/6/2010 (số hợp đồng 33835/ĐĐBĐ- VPQ12).
Nay, ông xác định chỉ yêu cầu ông BĐ_Minh phải để cho ông sử dụng lối đi qua đất của ông BĐ_Minh để đi ra đường công cộng. Phần đất ông yêu cầu sử dụng làm lối đi thể hiện tại vị trí số 6, 16, 19 tương ứng với diện tích là 47,3m2 của Bản đồ hiện trạng vị trí phát hành ngày 11/5/2012, nhưng ông không đồng ý bồi hoàn cho ông BĐ_Minh. Ngoài ra, ông không làm đơn đề nghị Tòa án tiến hành đo vẽ lại đối với hiện trạng phần đất tranh chấp và cũng không yêu cầu Tòa án công nhận bức tường cho ông. Việc Tòa án quyết định bản vẽ hiện trạng nào để làm căn cứ giải quyết vụ án này là tùy quyết định của Tòa án.
Các phần đất khác ngoài các phần đất nêu trên ông không tranh chấp. Ngoài ra, ông không có ý kiến yêu cầu nào khác.
- Trong bản tự khai, đơn phản tố, các biên bản trong quá trình giải quyết vụ án, với tư cách là người đại diện hợp pháp của bị đơn – ông Trịnh Văn Tuấn trình bày:
Với tư cách là người đại diện hợp pháp của ông BĐ_Trịnh Văn Minh, thì ông không đồng ý với yêu cầu của ông NĐ_Phạm Ngọc Dinh, vì ông cho rằng phần đất mà ông NĐ_Dinh yêu cầu ông BĐ_Minh phải chừa làm lối đi cho ông NĐ_Dinh thuộc quyền sử dụng của ông BĐ_Minh. Ông BĐ_Trịnh Văn Minh đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất này. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Số: 0335/QSDĐ do Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố HCM cấp ngày 24/4/1995 (nay là Quận X). Trong đó, ông BĐ_Minh được công nhận sử dụng diện tích 6694m2 đất, gồm các thửa: 1861, 1862, 1863, 1858, tờ 1 (tài liệu năm 1991) phường TCH, Quận X. Trong đó, diện tích đất được công nhận sử dụng tại thửa 1858 là 3288m2/3628m2.
Trước đây, ông NĐ_Dinh có yêu cầu ông BĐ_Minh phải cho ông NĐ_Dinh được sử dụng một phần đất thuộc một phần thửa 1858, tờ 1, diện tích 50,5m2, tương ứng với một phần vị trí số 6 của Bản đồ hiện trạng vị trí do Trung tâm đo đạc bản đồ Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố HCM lập ngày 28/6/2010 (số hợp đồng 33835/ĐĐBĐ-VPQ12).
Nay, ông NĐ_Dinh yêu cầu ông BĐ_Minh phải để cho ông NĐ_Dinh sử dụng lối đi qua đất của ông BĐ_Minh để đi ra đường công cộng. Phần đất ông NĐ_Dinh yêu cầu sử dụng làm lối đi thể hiện tại vị trí số 6, 16, 19 tương ứng với diện tích là 47,3m2 của Bản đồ hiện trạng vị trí phát hành ngày 11/5/2012. Với tư cách là người đại diện hợp pháp, ông không đồng ý với yêu cầu này của ông NĐ_Dinh.
Ông BĐ_Trịnh Văn Minh có đơn yêu cầu phản tố, yêu cầu ông NĐ_Dinh phải trả lại phần đất thuộc một phần thửa 1858, tờ 1 diện tích 181,1m2 tại vị trí số 5 của Bản đồ hiện trạng vị trí phát hành ngày 28/6/2010. Nay, ông xác định yêu cầu ông NĐ_Dinh trả lại cho ông BĐ_Minh đúng diện tích 181,1m2 của Bản đồ hiện trạng vị trí phát hành ngày 28/6/2010 theo đơn yêu cầu phản tố, bản khai mà ông BĐ_Minh đã trình bày. Ngoài ra, ông không làm đơn đề nghị Tòa án tiến hành đo vẽ lại đối với hiện trạng phần đất tranh chấp và cũng không yêu cầu Tòa án công nhận bức tường cho ông BĐ_Minh. Việc Tòa án quyết định bản vẽ hiện trạng nào để làm căn cứ giải quyết vụ án này là tùy quyết định của Tòa án.
Các phần đất khác ngoài các phần đất nêu trên ông không tranh chấp.
Ngoài ra, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn không có ý kiến, yêu cầu nào khác.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tiến hành tống đạt văn bản tố tụng và triệu tập các đương sự để tham gia về phiên hòa giải, nhưng việc hòa giải không thành nên vụ án đưa ra xét xử công khai tại phiên tòa.
Tại phiên tòa ngày 21/01/2016, nguyên đơn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ nhất, nên Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa theo quy định tại các Điều 199, 208 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa hôm nay:
- Nguyên đơn giữ nguyên ý kiến, yêu cầu trong quá trình giải quyết vụ án.
- Người đại diện hợp pháp của bị đơn giữ nguyên ý kiến, yêu cầu trong quá trình giải quyết vụ án.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án; các đương sự chấp hành đúng quy định của pháp luật.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
1. Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:
Về quan hệ pháp luật “V/v tranh chấp quyền sử dụng đất”. Đối tượng tranh chấp là quyền sử dụng đất tọa lạc tại Tổ 54 Khu phố 4, phường TCH, Quận X, Thành phố HCM.
Căn cứ vào Điều 25, 33, 35 Bộ luật tố tụng dân sự nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận X, Thành phố HCM.
2. Về yêu cầu của đương sự:
Căn cứ vào lời khai của đương sự; căn cứ vào giấy tờ, tài liệu do đương sự cung cấp và Tòa án thu thập được có đủ cơ sở xác định:
Nguyên đơn tranh chấp với bị đơn, yêu cầu bị đơn phải để cho nguyên đơn sử dụng lối đi qua đất của bị đơn để đi ra đường công cộng. Phần đất nguyên đơn yêu cầu sử dụng làm lối đi thể hiện tại vị trí số 6, 16, 19 tương ứng với diện tích là 47,3m2 của Bản đồ hiện trạng vị trí phát hành ngày 11/5/2012 của Trung tâm đo đạc bản đồ - Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố HCM (số hợp đồng: 33835/ĐĐBĐ-VPQ12). Bị đơn không đồng ý với yêu cầu này của nguyên đơn.
Bị đơn có yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, yêu cầu nguyên đơn trả lại cho bị đơn phần đất thuộc một phần thửa 1858, tờ 1 diện tích 181,1m2 tại vị trí số 5 diện tích 181,1m2 của Bản đồ hiện trạng vị trí do Trung tâm đo đạc bản đồ Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố lập ngày 28/6/2010 (số hợp đồng: 33835/ĐĐBĐ-VPQ12). Nguyên đơn không đồng ý với yêu cầu phản tố của bị đơn.
Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, các bên đương sự thừa nhận khi bản án cấp phúc thẩm có hiệu lực, thì hiện trạng phần đất tranh chấp có thay đổi. Bị đơn có xây tường bằng gạch block cao khoảng 2m dài khoảng 80m. Nhưng không đương sự nào làm đơn đề nghị Tòa án tiến hành đo vẽ lại hiện trạng phần đất tranh chấp và cũng không yêu cầu Tòa án công nhận bức tường này. Các đương sự đề nghị Tòa án căn cứ vào Bản đồ hiện trạng vị trí nào là quyết định của Tòa án để làm căn cứ giải quyết vụ án.
Hội đồng xét xử xét thấy:
Bản đồ hiện trạng vị trí phát hành ngày 11/5/2012 của Trung tâm đo đạc bản đồ - Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố HCM (số hợp đồng: 33835/ĐĐBĐ-VPQ12) có sau khi xét xử sơ thẩm. Trong các giai đoạn xét xử thì các Hội đồng đều căn cứ vào Bản đồ hiện trạng vị trí do Trung tâm đo đạc bản đồ Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố lập ngày 28/6/2010 (số hợp đồng: 33835/ĐĐBĐ-VPQ12) làm căn cứ giải quyết vụ án.
Trước đây, nguyên đơn có yêu cầu bị đơn phải cho nguyên đơn được sử dụng một phần đất thuộc một phần thửa 1858, tờ 1, diện tích 50,5m2, tương ứng với một phần vị trí số 6 của Bản đồ hiện trạng vị trí do Trung tâm đo đạc bản đồ Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố HCM lập ngày 28/6/2010 (số hợp đồng 33835/ĐĐBĐ-VPQ12). Nay, nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải để cho nguyên đơn sử dụng lối đi qua đất của bị đơn để đi ra đường công cộng. Phần đất nguyên đơn yêu cầu sử dụng làm lối đi thể hiện tại vị trí số 6, 16, 19 tương ứng với diện tích là 47,3m2 của Bản đồ hiện trạng vị trí phát hành ngày 11/5/2012.
Nguyên đơn yêu cầu sử dụng làm lối đi thể hiện tại vị trí số 6, 16, 19 của Bản đồ phát hành ngày 11/5/2012 tương ứng với diện tích là 47,3m2. Đối chiếu với Bản đồ hiện trạng vị trí phát hành ngày 28/6/2010 tương ứng một phần vị trí số 6 với diện tích 50,5m2. Do vậy, Hội đồng xét xử xem xét trong phạm vi yêu cầu của nguyên đơn với diện tích là 47,3m2.
Các phần đất khác ngoài các phần đất nêu trên các bên đương sự không tranh chấp.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử quyết định căn cứ vào Bản đồ hiện trạng vị trí do Trung tâm đo đạc bản đồ Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố lập ngày 28/6/2010 (số hợp đồng: 33835/ĐĐBĐ-VPQ12) làm căn cứ giải quyết vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất nêu trên và Bản đồ hiện trạng vị trí do Trung tâm đo đạc bản đồ Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố lập ngày 11/5/2012 là một phần chứng cứ để áp ranh thửa 280.
Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số 0335/QSDĐ do Ủy ban nhân dân Quận X, Thành phố HCM cấp ngày 24/4/1995 ghi tên ông BĐ_Trịnh Văn Minh. Trong đó, ông BĐ_Minh được công nhận sử dụng diện tích 6694m2, gồm các thửa: 1861, 1862, 1863, 1858, tờ 1 (tài liệu năm 1991) phường TCH, Quận X, Thành phố HCM. Trong đó, diện tích đất được công nhận sử dụng tại thửa 1858 là 3288m2/3628m2.
Bà Trịnh Thị Ghê (mẹ ruột ông NĐ_Dinh) sử dụng đất tại thửa 1740, tờ bản đồ số 1, diện tích 2848m2, xác định tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00776/QSDĐ/Q12/1998 do Ủy ban nhân dân Quận X, Thành phố HCM cấp ngày 14/12/1998 cho bà Ghê. Bà Ghê đã ký hợp đồng tặng cho phần đất này cho ông NĐ_Dinh tại Phòng Công chứng số 5, Thành phố HCM.
Đối chiếu vị trí các phần đất này thì thấy rằng:
- Vị trí số 5 diện tích 185,5m2, trong đó tương ứng với thửa 1858 là 181,1m2.
- Vị trí số 6 diện tích 64,5m2, trong đó tương ứng với thửa 1858 là 50,5m2. Nguyên đơn yêu cầu sử dụng làm lối đi với diện tích 47,3m2.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã xác minh làm rõ: Khi áp ranh Giấy chứng nhận và thực địa là đất thuộc thửa 1858 của ông BĐ_Minh. Trong khi đó, lối đi chung không thuộc diện tích đất mà bà Ghê được công nhận. Nếu con đường này là đất công thì Ủy ban nhân dân Quận X, Thành phố HCM có quyết định thu hồi 01 (một) phần diện tích đất thuộc thửa 1858 làm lối đi công cộng. Ngoài ra, ông BĐ_Minh được cấp đúng diện tích thửa đã đăng ký, sử dụng sau 1975, việc kiểm tra lại diện tích đất lúc nào là quyền của ông BĐ_Minh. Khi thông qua việc kiểm tra ông BĐ_Minh được quyền khởi kiện, nếu diện tích đất được cấp theo Giấy chứng nhận không đúng với hiện trạng ông BĐ_Minh đang sử dụng thì Ủy ban nhân dân có cấp điều chỉnh cho ông BĐ_Minh. Mặt khác, theo tỷ lệ giữa phần diện tích đất có tranh chấp theo tỷ lệ 1/400 thì các phần đất này vẫn thuộc thửa 1858. Như vậy, có căn cứ phần đất tranh chấp vẫn thuộc thửa 1858 theo như ranh thửa là 01 (một) đường thẳng 1858-1740 là đường thẳng theo tỷ lệ 1/4000. Do được phép sai số theo tỷ lệ bản đồ. Bên cạnh đó, theo tài liệu Ủy ban nhân dân phường TCH, Quận X, Thành phố HCM cung cấp theo Sổ địa chính các thửa các bên đăng ký sử dụng theo đúng thửa của các bên, thửa 1740 của bà Ghê, thửa 1858 của ông BĐ_Minh.
Hội đồng xét xử xét thấy: Các phần đất này ông BĐ_Trịnh Văn Minh đã đăng ký sử dụng đất tại địa phương và thực tế sử dụng từ trước năm 1975. Ông BĐ_Minh được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ năm 1995 và sử dụng đất từ trước khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đến nay mà không có sự khiếu nại nào của người khác, trong đó có bà Ghê, ông NĐ_Dinh. Mặt khác, các bên đăng ký sử dụng theo đúng thửa của các bên, thửa 1740 của bà Ghê, thửa của 1858 ông BĐ_Minh. Như vậy, ông BĐ_Minh đã sử dụng đất hợp pháp, có quá trình sử dụng đất thực tế tại thửa 1858, nên ông BĐ_Minh được công nhận quyền sử dụng đất tại thửa 1858 là hoàn toàn đúng quy định của pháp luật.
Xét: Ông NĐ_Phạm Ngọc Dinh yêu cầu được sử dụng đất để làm đường đi qua đất của ông BĐ_Minh, nhưng không đồng ý bồi hoàn cho ông BĐ_Minh tương ứng với diện tích đất tương ứng với phần ông yêu cầu được sử dụng. Mặt khác, căn cứ vào hiện trạng đất được thể hiện tại Bản đồ ngày 28/6/2010 (số hợp đồng 33835/ĐĐBĐ-VPQ12) thì ông NĐ_Dinh có thể dùng đường khác để đi từ thửa 1740 của ông ra đường công cộng, không nhất thiết phải đi qua đất thuộc thửa 1858 của ông BĐ_Minh. Do đó, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông NĐ_Phạm Ngọc Dinh, về việc yêu cầu ông BĐ_Trịnh Văn Minh phải cho ông NĐ_Dinh được sử dụng một phần đất diện tích 47,3m2 tương ứng với vị trí số 6, 16, 19 của Bản đồ hiện trạng vị trí do Trung tâm đo đạc Bản đồ Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố HCM lập ngày 11/5/2012 (số hợp đồng 33835/ĐĐBĐ-VPQ12). Do Hội đồng xét xử căn cứ Bản đồ phát hành ngày 28/6/2010 làm căn cứ giải quyết vụ án, nên đối chiếu qua Bản đồ hiện trạng vị trí lập ngày 28/6/2010 là một phần vị trí số 6 một phần thửa 1858, tờ 1 tương ứng diện tích 50,5m2. Do xét trong phạm vi yêu cầu của nguyên đơn, nên Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu của ông NĐ_Phạm Ngọc Dinh, về việc yêu cầu ông BĐ_Trịnh Văn Minh phải cho ông NĐ_Dinh được sử dụng một phần đất diện tích 47,3m2 để ra đường công cộng.
Xét: Ông BĐ_Trịnh Văn Minh có yêu cầu phản tố về việc yêu cầu ông NĐ_Phạm Ngọc Dinh phải trả lại cho ông BĐ_Trịnh Văn Minh diện tích đất 181,1m2 thuộc một phần thửa 1858, tờ 1, tương ứng một phần vị trí số 5 tại Bản đồ hiện trạng vị trí do Trung tâm đo đạc Bản đồ Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố HCM lập ngày 28/6/2010 (số hợp đồng 33835/ĐĐBĐ- VPQ12). Xét thấy: như đã nhận định trên, ông BĐ_Minh hiện là người sử dụng hợp pháp phần đất tại thửa 1858, tờ 1, trong đó có vị trí số 5 của Bản đồ ngày 28/6/2010 (số hợp đồng 33835/ĐĐBĐ-VPQ12) mà ông NĐ_Dinh đang chiếm dụng là 181,1m2 thuộc thửa 1858. Vì vậy, cần buộc ông NĐ_Dinh phải trả lại cho ông BĐ_Minh phần diện tích đất này. Do đó, cần chấp nhận yêu cầu phản tố của ông BĐ_Trịnh Văn Minh đối với ông NĐ_Phạm Ngọc Dinh. Buộc ông NĐ_Phạm Ngọc Dinh phải trả lại cho ông BĐ_Trịnh Văn Minh diện tích đất 181,1m2, thuộc một phần thửa 1858, tờ 1, tương ứng một phần vị trí số 5 tại Bản đồ hiện trạng vị trí do Trung tâm đo đạc Bản đồ Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố HCM lập ngày 28/6/2010 (số hợp đồng 33835/ĐĐBĐ-VPQ12). Phần đất này thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00335/QSDĐ do Ủy ban nhân dân Quận X, Thành phố HCM cấp ngày 24/4/1995 cho ông BĐ_Trịnh Văn Minh. Việc giao trả đất được thực hiện ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, không có đương sự nào đề nghị Tòa án tiến hành đo vẽ lại hiện trạng phần đất tranh chấp. Vì vậy, Tòa án đã lập biên bản xem xét tại chỗ ghi nhận hiện trạng phần đất tranh chấp có tường bằng gạch block cao khoảng 2m dài khoảng 80m. Tại biên bản các bên đương sự có thỏa thuận về giá bức tường là 3.500.000 (ba triệu năm trăm ngàn) đồng/1m2. Tuy nhiên, không có đương sự nào yêu cầu xử lý về bức tường này, cũng không có đương sự nào đề nghị Tòa án công nhận bức tường này, nên Hội đồng xét xử không xem xét trong vụ án.
Ông NĐ_Phạm Ngọc Dinh có cho rằng, căn cứ vào bản đồ trước năm 1975 thì đất thuộc vị trí thửa 1858 hiện nay ông BĐ_Minh được cấp Giấy chứng nhận là có thể hiện đường đi. Đồng thời, căn cứ vào diện tích tổng cộng 6.400m2 đất được chia đôi (3.200m2) thuộc thửa 280 (cũ) thì diện tích ông BĐ_Minh được cấp đã vượt quá diện tích từ tài liệu cũ. Xét thấy: Theo bản đồ ông NĐ_Dinh cung cấp thì không có chứng cứ nào thể hiện sự liên hệ giữa phần đất ông BĐ_Minh được cấp và thửa đất cũ và việc có thể hiện đường đi trên thửa cũ. Đồng thời, diện tích đất thực tế ông BĐ_Minh được cấp giấy chứng nhận cũng không có chứng cứ nào chứng minh việc sai lệch diện tích so với thửa đất cũ mà ông NĐ_Dinh xuất trình tại Tòa án. Mặt khác, việc công nhận quyền sử dụng đất được căn cứ vào quá trình có thực tế sử dụng đất từ năm 1975 cho đến thời điểm được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bà Ghê (sau này là ông NĐ_Dinh) đã được công nhận sử dụng đất tại thửa 1740, tờ 1, còn ông BĐ_Minh được công nhận sử dụng thửa 1858, tờ 1, không có sự chồng lấn thửa đất với nhau. Do đó, việc ông NĐ_Dinh nêu các ý kiến nại ra như trên là không có căn cứ.
3. Về án phí:
Ông NĐ_Phạm Ngọc Dinh phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Ông BĐ_Trịnh Văn Minh không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Việc tính án phí căn cứ vào giá giá đất các bên thỏa thuận tại biên bản thỏa thuận về việc xác định giá tài sản ngày 23/12/2015 và tại phiên tòa, thì giá đất tại vị trí số 6 là 1.000.000 (một triệu) đồng/m2, giá đất tại vị trí số 5 là 178.000 (một trăm bảy mươi tám ngàn) đồng/m2. Cụ thể như sau:
1.000.000 (một triệu) đồng x 47,3m2 = 47.300.000 (bốn mươi bảy triệu ba trăm ngàn) đồng.
178.000 (một trăm bảy mươi tám ngàn) đồng x 181,1m2 = 32.235.800 (ba mươi hai triệu hai trăm ba mươi lăm ngàn tám trăm) đồng.
Tổng cộng 47.300.000 đồng + 32.235.800 đồng = 79.535.800 (bảy mươi chín triệu năm trăm ba mươi lăm ngàn tám trăm) đồng. Ông NĐ_Phạm Ngọc Dinh phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 79.535.800 đồng x 5% = 3.976.790 (ba triệu chín trăm bảy mươi sáu ngàn bảy trăm chín mươi) đồng. Ông NĐ_Phạm Ngọc Dinh được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 750.000 (bảy trăm năm mươi ngàn) đồng theo biên lai thu số 019439 ngày 20/10/2009 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận X, Thành phố HCM. Ông NĐ_Dinh phải nộp thêm 3.226.790 (ba triệu hai trăm hai mươi sáu ngàn bảy trăm chín mươi) đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Ông BĐ_Trịnh Văn Minh không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Ông BĐ_Minh được nhận lại 807.000 (tám trăm lẻ bảy ngàn) đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm theo biên lai số 019604 ngày 23/11/2009 của Chi cục Thi hành án Quận X, Thành phố HCM.
Vì các lẽ trên,
Áp dụng Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (được sửa đổi, bổ sung năm 2011); Áp dụng các Điều 229, 233, 237, 690 Bộ luật dân sự năm 2005;
Áp dụng Pháp lệnh Số: 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/02/2009 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;
Áp dụng các Điều 2, 6, 7, 7a, 7b, 9, 30 Luật Thi hành án dân sự.
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông NĐ_Phạm Ngọc Dinh về việc yêu cầu ông BĐ_Trịnh Văn Minh phải cho ông NĐ_Dinh được sử dụng một phần đất diện tích 47,3m2 đối chiếu thuộc một phần thửa 1858, tờ 1, tương ứng với một phần vị trí số 6 của Bản đồ hiện trạng vị trí do Trung tâm đo đạc bản đồ Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố HCM lập ngày 28/6/2010 (số hợp đồng 33835/ĐĐBĐ-VPQ12). Phần đất này thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00335/QSDĐ do Ủy ban nhân dân Quận X, Thành phố HCM cấp ngày 24/4/1995 cho ông BĐ_Trịnh Văn Minh.
2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông BĐ_Trịnh Văn Minh đối với ông NĐ_Phạm Ngọc Dinh. Buộc ông NĐ_Phạm Ngọc Dinh phải trả lại cho ông BĐ_Trịnh Văn Minh diện tích đất 181,1m2 thuộc một phần thửa 1858, tờ 1, tương ứng một phần vị trí số 5 tại Bản đồ hiện trạng vị trí do Trung tâm đo đạc bản đồ Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố HCM lập ngày 28/6/2010 (số hợp đồng 33835/ĐĐBĐ-VPQ12). Phần đất này thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00335/QSDĐ do Ủy ban nhân dân Quận X, Thành phố HCM cấp ngày 24/4/1995 cho ông BĐ_Trịnh Văn Minh. Việc giao trả đất được thực hiện ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
3. Bức tường có trên đất tại Khoản 1 phần Quyết định của Bản án, Tòa án không xử lý trong vụ án này do các đương sự không có yêu cầu.
4. Về án phí:
Ông NĐ_Phạm Ngọc Dinh phải nộp 3.226.790 (ba triệu hai trăm hai mươi sáu ngàn bảy trăm chín mươi) đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Ông BĐ_Trịnh Văn Minh không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Ông BĐ_Minh được nhận lại 807.000 (tám trăm lẻ bảy ngàn) đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm, theo Biên lai số 019604 ngày 23/11/2009 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận X, Thành phố HCM.
5. Quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu thi hành án:
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b, 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
6. Quyền kháng cáo:
Các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.
Copyright © 2019 OPIC LAW All Right Reserved
Những điểm mới trong luật tạm giữ, tạm giam
Tháng Ba 22, 2019