Hoạt động của cơ quan tiến
hành tố tụng là một dạng hoạt động tư pháp nhằm bảo vệ xã hội khỏi sự xâm hại
của tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật. Hiện nay, những hành vi xâm phạm các hoạt động tư pháp trở thành một hiện tượng xã hội phức tạp. Hành vi đó cùng
một lúc có thể xâm hại đến nhiều lợi ích khác nhau. Việc xử lý không nghiêm
minh những hành vi này sẽ gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động đúng pháp luật của
các cơ quan tiến hành tố tụng, cản trở việc giải quyết đúng đắn các vụ án hình
sự, dân sự, kinh tế... làm giảm sút niềm tin của nhân dân vào pháp luật. Trước
tình hình đó, pháp luật đã quy định áp dụng các biện pháp nghiêm trọng cả về
hình sự và dân sự để ngăn chặn, khắc phục hậu quả nặng nề của nó. Từ góc độ
pháp lý mà nhận xét, các hành vi trái pháp luật nói trên do người có thẩm quyền
của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra vừa xâm phạm đến các hoạt động đúng đắn
của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án lại vừa xâm phạm đến tài
sản, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của công dân.
I. Nội dung
1. Những vấn đề chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng
Bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng là một chế định quan trọng trong luật dân sự. Theo quy
định tại Điều 275 BLDS năm 2015 thì một trong những căn cứ làm phát sinh nghĩa
vụ dân sự là sự kiện “gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật” và tương ứng với
căn cứ này là các quy định tại Chương XX, Phần thứ ba BLDS “Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng”. Sự kiện gây thiệt hại do hành vi trái pháp
luật” là căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Trong trường hợp này, trách nhiệm được hiểu là bổn phận, nghĩa vụ của người gây
thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Nhà làm luật trong trường hợp
này đã đồng nghĩa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng với nghĩa vụ
phát sinh do hành vi trái pháp luật. Điều 584 BLDS đã xác định sự đồng nghĩa
này bằng quy định: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây
thiệt hại thì phải bồi thường…”. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại làm phát sinh
nghĩa vụ bồi thường và từ nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại tạo ra quan hệ
nghĩa vụ tương ứng với khái niệm nghĩa vụ được quy định tại Điều 274 BLDS: “Nghĩa
vụ là việc mà theo đó một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa
vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực
hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một
hoặc nhiều chủ thể khác.
2. Bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng do người thi hành công vụ gây ra
Để đảm bảo quyền con người
không bị xâm phạm và luôn được bảo vệ, tôn trọng thì đa số các quốc gia trên
thế giới đã ban hành luật xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và đều
ghi nhận là Nhà nước phải có trách nhiệm đối với những hậu quả do cán bộ, công
chức Nhà nước gây ra trong quá trình thực thi công vụ.
Luật trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước năm 2017 quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với cá
nhân, tổ chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động
quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án; thiệt hại được bồi thường; quyền,
nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại; cơ quan giải quyết bồi thường; thủ
tục giải quyết yêu cầu bồi thường; phục hồi danh dự; kinh phí bồi thường; trách
nhiệm hoàn trả; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong công tác bồi thường
nhà nước.
Ngoài ra, còn có nhiều các
văn bản pháp lý liên quan và là những cơ sở pháp lý để đảm bảo quyền yêu cầu
bồi thường của cá nhân bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra.
Chính vì vậy, Điều 598 BLDS
năm 2015 quy định: “Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi
trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra theo quy định của Luật Trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước”.
Nhà nước không bồi thường
đối với thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại; trường hợp
người thi hành công vụ và người bị thiệt hại cùng có lỗi thì Nhà nước chỉ bồi
thường một phần thiệt hại tương ứng với phần lỗi của người thi hành công vụ.
Chẳng hạn như, trong quá trình hoạt động quản lý hành chính nhà nước, người thi
hành công vụ gây ra thiệt hại cho cá nhân, tổ chức khác thì trách nhiệm bồi
thường thiệt hại thuộc về nhà nước. Vậy trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
trong trường hợp này được giải quyết như sau:
Thứ nhất, về phạm vi trách nhiệm bồi
thường trong từng lĩnh vực
-
Bồi thường trong lĩnh vực quản lý hành chính Nhà nước: Điều 13 Luật
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã liệt kê 11 nhóm hành vi mà nếu gây ra
thiệt hại thì Nhà nước có trách nhiệm bồi thường. Đây là những hành vi có ảnh
hưởng lớn đến các quyền cơ bản của công dân như quyền tự do thân thể, quyền tự
do kinh doanh, quyền tự do sở hữu… do đó cần được Nhà nước dành sự quan tâm đặc
biệt, bằng cách cam kết sẽ bồi thường nếu các hành vi này gây thiệt hại cho tổ
chức, cá nhân. Như vậy, thiệt hại do các hành vi khác (không được quy định
trong Điều 13 của Luật) gây ra thì không được Nhà nước bồi thường. Tuy nhiên,
để thể hiện sự tôn trọng của Nhà nước đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân, tại Điều 13, Luật đã quy định thêm khoản 12, theo
đó, Nhà nước có trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại gây ra trong các
trường hợp khác nếu được pháp luật quy định.
-
Bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự, dân sự : Điều 26 Luật Trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước đã liệt kê các trường hợp mà Nhà nước có trách
nhiệm bồi thường. Phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động
tố tụng hình sự có các đặc điểm: Nhà nước chỉ có trách nhiệm bồi thường khi
người bị thiệt hại bị oan – tức là không thực hiện hành vi phạm tội mà bị điều
tra, truy tố, xét xử; không đặt vấn đề lỗi của người thi hành công vụ, tức là,
Nhà nước có trách nhiệm bồi thường nếu người bị thiệt hại được coi là bị oan,
bất luận công chức có lỗi hay không có lỗi trong việc gây ra tình trạng oan
này.
-
Vấn đề bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền trong tố tụng dân sự,
tố tụng hành chính đã được ghi nhận trong Bộ Luật dân sự và pháp luật về tố
tụng, nhưng khác so với bồi thường trong tố tụng hình sự, vấn đề bồi thường
trong 2 lĩnh vực tố tụng này chưa có pháp luật quy định cụ thể. Khắc phục tình
trạng này, Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước đã quy định cụ thể 4 trường
hợp được Nhà nước bồi thường (Điều 28).
-
Bồi thường trong hoạt động thi hành án: Đối với lĩnh vực thi hành án dân
sự thì theo Điều 38, Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do 8 nhóm
hành vi của người thi hành công vụ gây ra; đối với lĩnh vực thi hành án dân sự
thì theo Điều 39, Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do 4 nhóm hành
vi của người thi hành công vụ gây ra.
Thứ hai, điều kiện phát sinh quyền
yêu cầu bồi thường và trách nhiệm bồi thường.
-
Điều kiện phát sinh quyền yêu cầu bồi thường: Quan hệ trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước được xác định là quan hệ dân sự đặc thù, vì vậy, khác với
các quan hệ pháp luật dân sự thông thường, Luật Trách nhiệm Bồi thường của Nhà
Nước không quy định cho người bị thiệt hại được quyền làm đơn yêu cầu Nhà nước
bồi thường ngay sau khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình đã bị vi
phạm. Theo quy định tại Điều 4 của Luật thì quyền này chỉ phát sinh khi có văn
bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi của người thi hành công
vụ là trái pháp luật hoặc có bản án, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng
hình sự xác định người bị thiệt hại thuộc các trường hợp được bồi thường. Việc
quy định như vậy là thể hiện rõ một trong những nguyên tắc xuyên suốt của Luật
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là phải bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa mục
tiêu bảo vệ lợi ích của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại và lợi ích của Nhà nước,
tức là Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được ban hành là nhằm bảo vệ
lợi ích của cá nhân, tổ chức người bị thi hành công vụ gây thiệt hại nhưng đồng
thời cũng phải bảo đảm sự hoạt động ổn định, có hiệu quả của các cơ quan công
quyền. Như vậy, nếu quy định quyền yêu cầu bồi thường phát sinh ngay từ thời
điểm người bị thiệt hại cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm
thì sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến sự hoạt động của các cơ quan nhà nước.
-
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường của Nhà nước: Có văn bản xác
định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xác định thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường quy định tại Luật này;
có thiệt hại thực tế do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây
ra đối với người bị thiệt hại; có bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định thuộc phạm vi trách nhiệm
bồi thường quy định tại Điều 26 của Luật này; Có thiệt hại thực tế đối với
người bị thiệt hại do người tiến hành tố tụng hình sự gây ra trong trường hợp
quy định tại Điều 26 của Luật này.
Thứ ba, các thiệt hại được nhà
nước bồi thường. Trách nhiệm bồi thường của nhà nước cụ thể như thế nào ta sẽ
xem xét trong từng trường hợp cụ thể sau:
-
Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm
ü Trường hợp tài sản đã bị
phát mại, bị mất thì thiệt hại được xác định căn cứ vào giá thị trường của tài
sản cùng loại hoặc tài sản có cùng tính năng, tiêu chuẩn kỹ thuật và mức độ hao
mòn của tài sản đã bị phát mại, bị mất trên thị trường tại thời điểm giải quyết
bồi thường.
ü Trường hợp tài sản bị hư
hỏng thì thiệt hại được xác định là chi phí có liên quan theo giá thị trường
tại thời điểm giải quyết bồi thường để sửa chữa, khôi phục lại tài sản; nếu tài
sản bị hư hỏng không thể sửa chữa, khôi phục thì thiệt hại được xác định theo
quy định trên.
ü Trường hợp có thiệt hại
phát sinh do việc không sử dụng, khai thác tài sản thì thiệt hại được xác định
là thu nhập thực tế bị mất. Đối với những tài sản trên thị trường có cho thuê,
thu nhập thực tế bị mất được xác định phù hợp với mức giá thuê của tài sản cùng
loại hoặc tài sản có cùng tiêu chuẩn kỹ thuật, tính năng, tác dụng và chất
lượng tại thời điểm giải quyết bồi thường; đối với những tài sản trên thị
trường không có cho thuê, thu nhập thực tế bị mất được xác định trên cơ sở thu
nhập do tài sản bị thiệt hại mang lại trong điều kiện bình thường trước thời
điểm thiệt hại xảy ra; nếu tài sản bị kê biên được giao cho người bị thiệt hại
hoặc người khác quản lý thì chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục
thiệt hại về tài sản được xác định là những thiệt hại được bồi thường.
ü Các khoản tiền đã nộp vào
ngân sách nhà nước theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bị tịch
thu, thi hành án, khoản tiền đã đặt để bảo đảm tại cơ quan có thẩm quyền được
hoàn trả cho người bị thiệt hại hoặc thân nhân của họ; trường hợp khoản tiền đó
là khoản vay có lãi thì phải hoàn trả cả khoản lãi hợp pháp; trường hợp khoản
tiền đó không phải là khoản vay có lãi thì phải hoàn trả cho người bị thiệt hại
hoặc thân nhân của họ cả khoản lãi theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam công bố tại thời điểm giải quyết bồi thường.
-
Thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút
ü Cá nhân, tổ chức có thu
nhập mà xác định được thì được bồi thường theo thu nhập thực tế bị mất.
ü Trường hợp cá nhân có thu
nhập thường xuyên nhưng không ổn định thì mức bồi thường được xác định căn cứ
vào thu nhập trung bình trong ba tháng liền kề trước thời điểm thiệt hại xảy
ra.
ü Cá nhân có thu nhập không
ổn định và không có cơ sở xác định cụ thể hoặc thu nhập có tính chất thời vụ
thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại tại địa phương.
Trường hợp không xác định được thu nhập trung bình thì tiền bồi thường được xác
định theo mức lương tối thiểu chung đối với cơ quan nhà nước tại thời điểm giải
quyết bồi thường (sau đây gọi chung là lương tối thiểu).
-
Thiệt hại do tổn thất về tinh thần
ü Thiệt hại do tổn thất về
tinh thần trong thời gian bị tạm giữ hành chính, bị đưa vào trường giáo dưỡng,
cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh được xác định là hai ngày lương tối thiểu cho
một ngày bị tạm giữ hành chính, bị đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục,
cơ sở chữa bệnh.
ü Thiệt hại do tổn thất về
tinh thần trong trường hợp bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù được
xác định là ba ngày lương tối thiểu cho một ngày bị tạm giữ, tạm giam, chấp
hành hình phạt tù.
ü Thiệt hại do tổn thất về
tinh thần trong trường hợp người bị thiệt hại chết được xác định là ba trăm sáu
mươi tháng lương tối thiểu.
ü Thiệt hại do tổn thất về
tinh thần trong trường hợp sức khoẻ bị xâm phạm được xác định căn cứ vào mức độ
sức khoẻ bị tổn hại nhưng không quá ba mươi tháng lương tối thiểu.
ü Thiệt hại do tổn thất về
tinh thần trong trường hợp bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án mà không bị
tạm giữ, tạm giam được xác định là một ngày lương tối thiểu cho một ngày bị
khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù cho
hưởng án treo. Thời gian để tính bồi thường thiệt hại được xác định kể từ ngày
có quyết định khởi tố bị can cho đến ngày có bản án, quyết định của cơ quan có
thẩm quyền xác định người đó thuộc trường hợp được bồi thường quy định tại
khoản 3 Điều 26 của Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước.
-
Thiệt hại về vật chất do người bị thiệt hại chết
ü Chi phí hợp lý cho việc cứu
chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết.
Chi phí cho việc mai táng theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.
Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ
cấp dưỡng. Tiền cấp dưỡng hàng tháng được xác định là mức lương tối thiểu, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc đã được xác định theo quyết định có
hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
-
Thiệt hại về vật chất do bị tổn hại về sức khoẻ:
ü Chi phí hợp lý cho việc cứu
chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người
bị thiệt hại.
ü Thu nhập thực tế bị mất
hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại
ü Chi phí hợp lý và thu nhập
thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị.
ü Trong trường hợp người bị
thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt
hại được bồi thường bao gồm chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại
và khoản cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa
vụ cấp dưỡng. Khoản cấp dưỡng hàng tháng được xác định là mức lương tối thiểu,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc đã được xác định theo quyết định
có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Thứ tư, về kinh phí bồi thường
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước quy định, trường hợp cơ quan trung ương có trách nhiệm bồi thường thì kinh
phí bồi thường được bảo đảm từ ngân sách trung ương; trường hợp cơ quan địa
phương có trách nhiệm bồi thường thì kinh phí bồi thường được bảo đảm từ ngân
sách địa phương. Việc lập dự toán kinh phí bồi thường do cơ quan tài chính các
cấp phối hợp với cơ quan, đơn vị cùng cấp thực hiện trên cơ sở căn cứ vào thực
tế bồi thường của năm trước để trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định
theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước và được phân bổ cho các cơ
quan, đơn vị khi có yêu cầu chi trả tiền bồi thường kết thúc năm ngân sách, các
cơ quan, đơn vị có trách nhiệm bồi thường lập quyết toán kinh phí đã chi trả
bồi thường, tổng hợp chung trong quyết toán ngân sách hàng năm của cơ quan, đơn
vị gửi cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước.
II. Kết luận
Như vậy, theo quy định này, khi người thi
hành công vụ có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại thì vấn đề bồi thường
thiệt hại sẽ được áp dụng theo quy định của Luật Trách nhiệm Bồi thường của Nhà
nước, tức là BLDS không còn là cơ sở pháp lý trực tiếp để giải quyết các vấn đề
liên quan đến bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra.
Tài liệu tham khảo
1.
Bộ luật dân sự năm 2015
2.
Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước 2017
3.
Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử
Copyright © 2019 OPIC LAW All Right Reserved
Những điểm mới trong luật tạm giữ, tạm giam
Tháng Ba 22, 2019